Những bài học về văn hóa và ngôn ngữ từ một lời cảm ơn của chủ tịch Hồ Chí Minh
Bùi Khánh Thế (Đại học Ngoại ngữ - Tin học Thành phố Hồ Chí Minh)
Trong
di sản
ngôn ngữ Hồ Chí Minh có một bài thơ với chỉ đúng 04 dòng, nhưng
từ đó chúng ta có thể rút ra những bài học
quý về văn hóa và về ngôn ngữ. Bài thơ ấy như sau:
CẢM ƠN NGƯỜI TẶNG CAM
Cảm
ơn bà biếu gói cam,
Nhận
thì không đúng, từ làm sao đây!
Ăn quả nhớ kẻ trồng
cây,
Phải
chăng khổ tận đến ngày cam lai?
Tháng
1/1946
(Hồ Chí Minh toàn tập,
T.4, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.168)
Trước khi nói về những bài học,
thiết tưởng chúng ta cần biết lịch sử ra đời của bài thơ
mà tôi ghi lại theo lời kể của GS.Trần Hữu Tá1,
khi chúng tôi trao đổi với nhau về nữ
thi sỹ
Hằng Phương (1908 - 1983), người được Chủ
tịch Hồ Chí Minh gửi lời cảm ơn qua
những
vần thơ đặc sắc trên đây. GS. Trần hữu Tá cho biết: “Là
bạn
đời của nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan (1907 - 1987), bà Hằng Phương thời bấy giờ, đầu năm 1946, vẫn
thường đi lại Hà Nội – Thanh Hóa tần tảo lo toan công việc của một
nội tướng để nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan có thể dành thì giờ,
tâm trí cho công tác văn hóa cách mạng.
Trong một
lần đi Thanh Hóa, bà mua được một chục cam ngon đem về biếu Bác. Tuy trong lòng thì rất muốn được trực tiếp gặp Bác, nhưng
lại e ngại làm mất thời gian quý báu
của
Người, nên nữ thi sỹ để lại cam biếu Bác với một bài thơ”.
Khi nhận được quà mà người biếu gửi lại,
hẳn Bác rất băn khoăn, áy náy. Bởi thế nên
mới
có câu thơ:
Nhận
thì không đúng, biết từ sao đây?
Thế rồi Người quyết định
gửi đến báo Tiếng gọi phụ nữ, cơ quan ngôn luận
của tổ chức Phụ nữ Cứu quốc, nhờ
chuyển lời cảm ơn. Số 11 của báo này
ra ngày 8/1/1946
đã đăng bài viết như sau:
“Thơ của Hồ Chủ
tịch trả lời bà Hằng Phương: “Bà Hằng Phương gửi biếu tôi một gói cam, kèm theo một bài thơ. Vì bà không viết chỗ ở, tôi không biết gửi thư cảm ơn đến đâu. Nên tôi nhờ Tiếng
gọi phụ nữ đăng
mấy lời cảm tạ của tôi như sau”. (Bài thơ đã
giới
thiệu ở đầu bài viết này).
Từ các vần thơ của Bác
và mấy điều cần biết được giới thiệu trên,
tôi rút ra cho
mình
những
bài học rất quý về văn hóa và
về
ngôn ngữ. Trước hết là bài học về ứng xử văn hóa. Đó là tâm
trạng băn khoăn khi biết có quà gửi biếu mình.
Nhận
thì không đúng, biết từ sao đây!
Đọc câu thơ này tôi liên tưởng đến
đức
tính liêm khiết mà Bác vẫn
thường nói đến mỗi khi có dịp. Và đức tính ấy rõ
ràng thường
trực trong suy nghĩ của Bác ngay cả khi tự suy
xét mình, chứ
không phải chỉ để nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Hai là văn hóa về sự cảm ơn. Nhận
được sự thi ân, dù đó là một sự quan tâm, sự
giúp đỡ nhỏ nhất thì người
nhận, nơi nhận nhất thiết phải cảm ơn. Được “biếu gói cam”, người biếu
quà không chỉ không còn hiện
diện mà cũng “không viết chỗ ở” nên
Bác
“không biết gửi thư cảm ơn đến đâu”. Nhưng
Người đã tìm được cách cảm ơn thích hợp và thỏa
đáng là nhờ báo “đăng lời cảm tạ”. Phải chăng trong việc giáo dục con em mình,
học sinh, sinh viên mình, và cả chính bản thân ta,
vì lý do này hay hoàn cảnh khác mà
chúng ta cũng có lúc nhãng quên, chưa tạo được nét ứng xử văn hóa cảm ơn này?
“Mấy lời cảm tạ” của Bác
được thể hiện qua hình thức các vần thơ – Theo tôi từ
cách
tiếp
cận ngữ dụng học (pragmatics)3. Đây là những bài học
quý về cách ứng xử ngôn ngữ. Đầu tiên là bài học về việc lựa chọn hình thức
chuyển tải nội dung lời cảm tạ: một bài thơ. Phương châm về cách thức
(Maxim of manner) mà ngữ dụng học đề ra khi hội thoại là biểu
đạt súc tích, mạch lạc, tránh mơ hồ, tối nghĩa (be brief, orderly; avoid ambiguity).
Phương châm này được thể hiện rõ ràng ngay từ câu thơ đầu. Các câu
thơ tiếp theo cũng gắn hữu cơ với lời cảm ơn,
nhưng không lặp lại mà phát triển những ý khác, dĩ nhiên vẫn
liên kết hữu cơ với lý do cảm ơn, nhưng chính là để phát triển thêm các ý mới,
phản ánh tính cách của chủ ngôn. Ngôn từ được dùng phản
ánh vừa đủ, không để dư thừa
một từ nào, đáp ứng đúng
yêu cầu của phương châm hành ngôn, ở bài thơ này là lời
cảm ơn và lý do của hành động cảm ơn. Cách Bác dùng hình thức thơ để cảm ơn hoàn toàn phù hợp
với phương châm về chất lượng (Maxin of Quality) và phương châm về số lượng (Maxim of Quanlity) của quy luật hành động ngôn ngữ
(speech Act): Hình thức đặc thù
của thơ có thể biểu hiện cô đọng một nội dung hết sức phong phú.
Có
thể
không ít người tự hỏi vì sao Bác dùng bài thơ để thay lời cảm ơn và cũng
có
thể
có những cách lý giải khác nhau. Tuy nhiên,
dựa
vào phương châm về quan hệ hay còn gọi là quan yếu
(Maxim of Relation/ Relevance) để hiểu điều này
có lẽ
là hợp lý nhất. Bởi vì phương
châm về quan hệ vẫn được dụng học xem là phương châm tối quan trọng
(supermaxim), làm cho cuộc hội thoại giữa người nói – người
nghe (/người viết – người đọc) không mấy xa cách, nhờ đó mà càng dễ
thông hiểu nhau hơn. Ta nhớ trong bài thơ kèm theo gói cam biếu Bác, bà Hằng
Phương với tư cách là một công dân, đã
dùng những
lời rất trang trọng “Kính dâng Chủ tịch”, “Anh hùng
mở
mặt giang san”. Gởi lời cảm ơn bằng một bài thơ Bác
đã chuyển quan hệ Chủ
tịch nước – công dân thành quan hệ giữa nhà thơ - nhà
thơ và sự kiện biếu cam đó được chuyển thành trường hợp thù tiếp
giữa hai nhà thơ. Tính chất thù
tiếp
ấy, chúng ta rất dễ nhận thấy
khi đặt hai câu thơ của thi sỹ Hằng
Phương.
Đắng cay Cụ nếm đã nhiều,
Ngọt
bùi trời trả đủ điều từ đây.
bên
cạnh
câu kết trong bài thơ của Bác: … “Phải chăng khổ tận đến
ngày cam lai”.
Trong văn hóa Việt Nam,
và có lẽ cả ở nhiều nước phương
Đông, đó là cách ứng xử văn hóa thường gặp. Và
ta có thể
hình dung nữ thi sỹ
nổi tiếng Hằng Phương với tâm hồn thi
sỹ
sẽ cảm động và thú vị như thế nào khi đọc
bài thơ cảm ơn của Chủ tịch – nhà thơ Hồ
Chí Minh.
Câu thơ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”
là câu tục ngữ Việt Nam nhà thơ Hồ Chí
Minh dẫn ra nhân dịp nói lời cảm ơn người biếu gói cam để tự răn, theo
cảm thức của bậc trí giả Việt Nam. Còn chúng ta, người đọc, hẳn không ai không xem đó
là lời nhắc nhở cho mình về
lòng biết ơn theo sự ứng xử văn hóa cần
có của mỗi người.
Từ câu kết của bài thơ
chúng ta lại hoàn toàn có thể rút ra một bài học
về ngôn ngữ và một bài học về tinh thần lạc quan. Lời thơ của câu này là “sự
trộn mã” (code mixing) Việt – Hán. Khổ tận cam lai là thành ngữ Hán. Thành ngữ này được thi sỹ Hằng
Phương Việt hóa và đưa vào hai câu thơ của mình.
Trong ngôn từ
của mình Bác đã
dùng bốn
từ của thành ngữ Hán ghép vào với
bốn từ Việt thành một câu thơ, vừa như cách chơi chữ
của những từ đồng âm khác nghĩa theo truyền thống văn hóa Việt
Nam cũng vừa cho chúng ta thấy có thể
dùng
các yếu
tố ngoại lai làm giàu cho ngôn ngữ của mình như
thế nào.
Cuối bài, tiềm
ẩn dưới lời thơ kết của Bác, chúng ta cảm nhận được niềm lạc
quan vốn là một nét đặc thù trong tính cách của Người. Xung quanh
khoảng thời gian cuối năm 1945 đầu 1946 hẳn chúng ta đều biết đó là giai đoạn lịch
sử mà Việt Nam phải đối mặt với vô vàn khó khăn,
chống chọi với giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, khi nhân dân ta vừa
giành lại được nền độc lập. Với lời kết
bài thơ là một câu hỏi tu từ:
Phải chẳng khổ tận đến
ngày
cam lai?
Bác gợi cho mọi người một lẽ thường
của quy luật mà cũng là một triết lý sống lạc quan thường tồn của người Việt
Khổ tận cam lai lý tự
nhiên….
như lời thơ Người đã từng dùng
cuối bài Tình thiên (Trời hửng). Kết thúc cả tập
thơ Nhật
ký
trong tù đã
được nhà thơ Nam Trân dịch rất đạt, theo GS.Trần Thanh Đạm, “vừa tín vừa nhã”:
Hết khổ là vui vốn lẽ đời…
Ghi chú
1. Tôi chân thành cảm ơn GS. Trần
Hữu Tá đã vui lòng chia sẻ với tôi những thông tin quý báu, giúp tôi
nâng cảm hứng khoa học để làm tăng
thêm chất lượng cho bài viết này.
2. Bài thơ bà Hằng Phương kèm
theo gói cam kính biếu Hồ Chủ Tịch:
Cam ngon Thanh Hóa vốn dòng
Kính dâng Chủ tịch tỏ lòng mến yêu
Đắng cay Cụ nếm đã nhiều;
Ngọt bùi trời trả đủ điều từ đây.
Cùng quốc dân hưởng những
ngày
Tự do, hạnh phúc tràn
đầy trời Nam.
Anh hùng mở mặt giang san
Lưu danh thiên cổ, vẻ
vang giống nòi.
Tháng giêng VNDCCH năm
thứ hai (2.1.1946)
Hằng Phương kính bút.
3. Ngữ dụng học/ dụng học cho rằng
muốn hiểu nghĩa của lời nói chúng ta phải hiểu biết hoàn cảnh (context) mà lời
nói được dùng và dùng theo cách thức (ways) nào: nói vào lúc nào, nơi nào, mối quan
hệ giữa người phát ngôn, tức người nói và người thụ ngôn, tức người tiếp nhận lời
nói, cũng như hiệu quả của cách nói khi sử dụng lời nói với các chức năng (tức
với những mục đích) khác nhau. Theo sự phân loại của Austin J.L. (1962), hành động
ngôn ngữ (speech Acts) được phân thành 5 lớp
lớn: 1- phán xét (verdictive);
2- hành sử (exercitive); 3- cam kết (commissive); 4 - ứng xử (behavitive) và 5
bày tỏ (expositive). Theo cách phân loại này cảm ơn thuộc về lớp hành động ứng xử.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4 (1945-1946),
NXB Chính trị quốc gia, 2000.
2. Trần Thanh Đạm, “Chủ nghĩa lạc
quan Hồ Chí Minh”, tạp chí Hồn Việt, số 33 (tháng
3-2010), tr.4-52010.
3. Trần Hữu Tá, “Về bài thơ cảm ơn
người tặng cam”, Báo Sài Gòn Giải phóng, thứ bảy,
07/3/2009.
4. Bùi Khánh Thế, “Đạo đức Hồ Chí
Minh – một chuẩn mực của văn hóa Việt Nam” – Trong kỷ yếu Hội nghị khoa học về chủ
đề Hồ
Chủ tịch và văn hóa, văn
học
dân
tộc, tr.105-121, 2001.
__
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét