BÀ MẸ
NUÔI CỦA NHÀ THƠ PHÙNG QUÁN
Nguyễn
Bùi Vợi
Năm 1960, đi lao động thâm nhập thực tế ở Thái
Bình cùng các nhà văn Tô Hoài, Hoàng Trung Thông…về, Phùng Quán bị nhiễm lao. Nằm
điều trị ở bệnh viên lao trung ương khỏi bệnh rồi nhưng không biết về đâu vì
phòng Văn nghệ quân đội không còn tên anh nữa, Hội nhà văn cũng đã khai trừ
anh.Phùng Quán về thôn Nghi Tàm xã Quảng An huyện Từ Liêm (Hà Nội) đến nhà ông
cả Hàm là trưởng xóm Đình xin ở nhờ ít lâu. Gia đình ông cả vui vẻ nhận lời vì
biết anh là tác giả tiểu thuyết “Vượt Côn Đảo” nổi tiếng. Ông cả Hàm nói với vợ:
Tôi cũng có biết anh này có “phốt”. Người ta đầu xanh tuổi trẻ lại có tài ắt là
có tật, thôi giúp đỡ người ta, để phúc để đức cho con!
Không có
lương, Phùng Quán sắm cần câu, thỉnh thoảng ra hồ câu cá trộm!
Một hôm,
anh đi qua trước một túp nhà lá một gian hai chái. Thấy một bà cụ một mình đi
ra đi vào, Phùng Quán tạt vào chơi.
Hỏi truyện
cụ, anh mới biết cuộc đời cụ thật gian nan. Cụ ông uống rượu say, “đi” luôn đến
mồng một Tết để lại cho cụ bà một mảnh vườn, một ngôi nhà gỗ 5 gian và 3 đứa
con dại. Cô gái đầu lòng tiên là Húng mất năm 13 tuổi. Con thứ hai là Nguyễn
Văn Thơm vào bộ đội, hy sinh vào năm 1947 ở mặt trận Hà Nội. Con gái út tên là
cô Vỏ bị thiên đầu thống, lòa cả hai mắt, mất năm 30 tuổi, chưa kịp lấy chồng.
Trước cụ cũng có một gian hàng bán cơm ở chợ hàng Da nhưng vì con bệnh nặng,
gia tài khánh kiệt, cụ phải bán đi cả căn nhà gỗ 5 gian, cây que chụm lên túp
này…
Nghe cụ
trưởng Rơi kể vậy, Phùng Quán không cầm được nước mắt. Anh nói với cụ:
– Mẹ ơi,
con là bộ đội chống Pháp. Quê con ở Huế. Ba mẹ con đã mất cả, Con ở Hà Nội một
mình. Con vẫn ở nhờ ông cả Hàm. Nay thấy mẹ sống một mình, con muốn xin dựa dẫm
vào mẹ, không biết con có được mẹ thương không?
Cụ Mùi cười
hai hàm răng đen nhức.(Vâng, tên thật của cụ là Nguyễn Thị Mùi, còn có tên là cụ
trưởng Rơi vì hồi trước cụ cố đẻ rơi cụ nên đặt tên là Rơi.)
Cụ Rơi xởi
lởi nói với Phùng Quán:
– Thế
này, anh bộ đội ạ. Các cụ bảo: “ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu!” Nhà tôi chỉ
có một túp thế thôi đấy. Anh xem có kê được cái giường nữa thì kê, ở cho ấm
nhà!
Phùng
Quán đi hỏi bạn bè. Nhà viết kịch Phan Vũ (tác giả vở kịch “Lửa cháy lên rồi”)
cho anh mượn một cái giường cá nhân kê cạnh cái phản cụ Mùi nằm, còn thừa một lối
đi nhưng phải đi nghiêng vì lối đi chỉ rộng chừng 30 phân. Quán kiếm gỗ thùng
đóng một cái bàn viết nhỏ đặt sát với của sổ. Ngày ngày anh quay mặt ra hồ, ngồi
viết tiểu thuyết.
Hai mẹ
con thổi nấu ăn với nhau. Sáng ra, Phùng Quán cho gánh hàng của mẹ nuôi lên xe
đạp, dắt lên đường cái. Cụ Mùi bán quà trẻ con như bánh đa, bỏng ngô, kẹo dồi,
ô mai các loại… Mùa mía cụ chỉ bán mía. Buổi sáng Phùng Quán thồ mía cây, mía tấm
lên đường cái cho cụ, trưa mang cặp lồng cơm ra hàng, chiều ra thồ bã mía về,
phơi khô đun nấu. Túp lều có người ra, người vào, có tiếng nói tiếng cười ấm
cúng.
Rồi Phùng
Quán dẫn người yêu là Bội Trâm giới thiệu với mẹ nuôi. Thấy cô gái lễ phép, lịch
sự lại là giáo viên cấp 3, cụ Mùi rất thương. Năm 1962, Phùng Quán và Bội Trâm
đến đăng ký kết hôn ở ủy ban hành chính xã Quảng An huyện Từ Liêm Hà Nội.
Hàng tuần,
chiều thứ bảy, Bôi Trâm mới về với chồng ở nhà bà mẹ nuôi thôn Nghi Tàm. Ngày
thường chị ở nhà mẹ, số 3 hàng Cân, đi dạy học ở trường Trưng Vương phố Hàng
Bài Hà Nội. Đến kỳ lương, chị mang về đưa cho cụ.
Một hôm cụ
đưa cho chị mười lăm đồng và bảo:
– Cậu
Quán đẹp trai nhưng ăn mặc lôi thôi quá. Cô ra chợ sắm cho cậu ấy một bộ cánh,
áo pô-pơ-lin, quần si-mi-ly, diện vào xem có oách không nào?
Hai vợ chồng
bàn nhau may áo vải, quần ka-ki cho cụ vui lòng, còn dư tiền còn để mà ăn chứ.
Một suất lương nuôi hai người rồi!
Năm 1963,
sinh cháu Đỗ Quyên đầu lòng, Quán bàn với vợ sau hai tháng nghỉ đẻ, đi dạy thì
cho con vào nôi, đưa lên đây, anh vừa viết vừa trông con hộ vợ.
Thấy thế,
buổi chiều khi Bội Trâm ở trường về, cụ Mùi chỉ Phùng Quán, đọc vè trêu chọc:
Công danh
sự nghiệp lờ đờ
Trông con
cho vợ còn nhờ miếng ăn!
Lúc ấy, cụ
cười nhưng nước mắt lưng tròng. Phùng Quán bảo vợ “công danh sự nghiệp lờ đờ”
thì tài thật, nhà thơ chuyên nghiệp đã chắc hạ được hai chữ ấy à?
Đã ấm nơi
ăn chốn ở rồi, bạn bè văn nghệ đã bắt đầu lui tới. Phùng Quán ra vườn chặt mấy
cành ổi ghép vào nhau thành ghế dựa. Mặt ghế, lưng ghế anh ghép bằng tre cật,
ngồi nhiều đen bóng cả lên. Ai đến cũng khen bộ ghế đẹp. Phùng Quán còn ghép cành
ổi thành ghế đu, đặt ngoài vườn nằm đọc sách. Thấy bạn bè Phùng Quán khen anh
khéo tay, cụ Mùi đặt vè trêu con nuôi:
Người ta
sập gụ, tủ chè
Nhà tôi
cành ổi… Ngứa nghề xa lông!
Hai chữ “
Ngứa nghề” thật đau đớn, chua chát. Bội Trâm sinh con trai là Quý Quân. Cuối tuần
ba mẹ con về với bố với bà. Những hôm ấy, cụ Mùi đi chợ mua thịt, cá, gà, trứng
để bồi dưỡng cho các cháu. Có hôm chị Trâm kêu “sao mẹ mua nhiều thế” thì cụ mắng:
– Làm ra
được đồng tiền, thấy con cháu nó ăn ngon miệng là mẹ vui. Chết rồi có mang tiền
xuống âm phủ được đâu.
Rồi cụ
Mùi lại đọc vè, lần này là vè… tự diễu:
Đi buôn từ
thuở mười hai
Tôi thề
tôi chẳng yêu ai bằng… tiền!
Những lần
Phùng Quán đi thực tế hay đi viết ở tỉnh này, tỉnh kia, cụ dặn mang áo len,
mang lọ dầu cao con hổ, mang thuốc phòng đau bụng. Cụ dặn đừng nên ăn lòng lợn
tiết canh, người ta làm không đảm bảo vệ sinh. Những lúc ấy, Phùng Quán quay mặt
đi, giấu những giọt nước mắt.
Năm 1975
giải phóng miền Nam, Phùng Quán về Huế rồi vào thành phố Hồ Chí Minh tìm anh
em, họ hàng.
Ở ngoài
này, cụ Mùi lên Ủy ban nhân dân xã Quảng An làm di chúc: Sau khi cụ qua đời,
con nuôi của cụ là nhà thơ Phùng Quán và vợ là cô giáo Bội Trâm có quyền hưởng
thừa kế mảnh vườn một sào và túp lều của cụ. Nhờ người viết xong, cụ điểm chỉ ở
cuối trang và xin chứng nhận của Ủy ban nhân dân xã Quảng An. Vợ chồng Phùng
Quán xin lễ sống bà mẹ nuôi, tỏ lòng cảm kích trước cử chỉ tốt đẹp của cụ nhưng
xin không dám nhận ân huệ đó vì không chắc có phụng dưỡng cụ đến hết tuổi Trời
được hay không? Anh chị đề nghị mẹ nuôi của mình đón một đứa cháu trong nội tộc
về ở chăm sóc cụ cuối đời và hưởng sự thừa kế.
Năm 1982,
cụ Mùi qua đời. Phùng Quán thời gian này đang ở trên vùng núi Thái Nguyên trông
coi khu đất tăng gia của Bộ Văn hóa, nhận được tin, về không kịp.
Bội Trâm
xin phép mẹ đẻ ở số 3 Hàng Cân cho phép được buộc khăn mặc áo xô để tang mẹ
nuôi của chồng mình. Cháu trai Quý Quân đi đầu rước ảnh Bà nội. Năm 2000, người
mẹ liệt sĩ cô đơn ấy được nhà nước truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh
hùng”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét