Bài viết trong “Kỷ yếu Hội thảo quốc gia: Văn chương xứ Huế trong tiến trình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX ” tháng 6 - 2022 của Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế.
HỒN
HUẾ TRONG THƠ NAM TRÂN
Trần Nhật Thu (TS, Trường
Đại học Khoa học, Đại học Huế)
Với thi ca Việt mà nói, Huế như một mảnh khói sương, bảng lảng, mơ hồ, cứ e chạm đến sẽ tan vào thinh lặng. Huế, thêm một chút ồn ã hay thiếu một chút mơ màng đều cũng sẽ không còn là chính mình. Dường như tạo hoá đã âm thầm sắp đặt, để qua bao biến thiên của thời cuộc, thì Huế vẫn còn đó, như miền mộng tưởng đứng ngoài dâu bể. Huế đẹp, Huế thơ, đúng như cách Nam Trân gọi tên tập thơ của mình.
Điều gì đã khiến người con xứ Quảng ấy nặng
lòng, nặng tình với Huế đến vậy? Tơ vương đến độ mang cả tâm hồn, cả vốn văn
hoá, cả những tâm tư sâu kín của mình dung nhập vào cảnh sắc và con người xứ Huế
để viết nên những vần thơ Huế hơn bất kì ai, như lời nhận định của Hoài Thanh:
"Tả cảnh Huế chưa ai bằng Nam Trân"(1)
Trong bài Núi
Ngự sông Hương,
Nam Trân viết:
Huế tôi, cánh đẹp như mơ
Đê'đô là một bài thơ muôn vần
Cho dẫu nhà thơ nuối tiếc tự nhận
"tay tiên dù nắn bút thần/cũng đành bỏ lắm những phần thanh tao"
nhưng cũng không thể phủ nhận rằng Nam Trân đã thành công ghi lại cái thần của
một Huế đa tình, mộng mơ, kiêu kì nhưng không kém phần chân thực, mộc mạc bằng
thứ bút pháp linh hoạt, đầy sức hút.
Xứ Huế phong tình
Cảnh Huế, người Huế kín đáo, nhưng nét kín đáo kia lại ẩn
giấu nét duyên thầm, thậm chí là quyến rũ hơn cả lối hành động trực tiếp, như
nét đẹp phong kín của những cánh hoa ấp ôm đài nhuỵ, một khi bung nở là viên
mãn tràn trề. Chất phong tình thấm cả vào cốt cách quân vương: "Kim Luông
có gái mĩ miều/Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi". Ở Huế, ngay cả
cái bóng lưng chèo đò của người con gái cũng đẹp đến lạ:
Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng,
Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo
Một hành động vẩy mái chèo cũng như vấn vương gieo vào
lòng người thứ cảm xúc khó quen. Để rồi, cho đến cuối bài thơ, vô tình hay hữu
ý, người đọc mới nhận ra rằng đôi mái chèo ấy đã khuấy động cả tâm hồn mình:
Thuyền qua đến bến; cô lui lại,
Vẩy chiếc chèo ngang: giọt nước gieo.
Đăm
đăm mắt mỏi vì chèo,
Chèo
cô quây nước trong veo giữa dòng.
Biết
không? Cô hời, biết không?
Chèo
cô còn quấy, sóng lòng còn xao!
Có lẽ,
nhà thơ chỉ trộm một cái nhìn, nhưng lại lạc mất cả tâm hồn vì bóng lung duyên
dáng ấy. Và dòng sông, với bản chất chu chuyển không ngừng, còn là nơi lưu giữ
những tình yêu, những mộng ảo không thành:
Sóng nước
Hương Giang dợn sóng tình
Câu
chuyện nước non thừa gắn bó
Trước
thuyên trăng bạc rọi đau xanh...
“Trong tích xưa, có những
bài thơ đề trên lá đỏ (hồng, diệp) trôi theo dòng nước mà kết mối lương duyên.
Thì nay, những người yêu nhau cũng mượn dòng nước, nhưng là để gửi gắm những nuối
tiếc, những lời oán than, những hoài nghỉ không có lời giải đáp:
Thơ tàn một bức mong manh,
Nước chao nhưng nét mực xanh chưa loà.
Duyên xưa sao khéo đượm đà!
Mà nay tình lại phôi pha cối lòng?
Xứ Huế, hình sông thế núi,
thảy đều mang cái nét phong tình của đất thần kinh chung đúc linh khí qua thời gian.
Dưới mắt nhìn của nhà thơ, hình ảnh người con gái ngồi giữa hoa cỏ bạt ngàn
cũng duyên dáng, ý nhị như trong ca dao xưa:
Trên núi Ngự Bình
Bông sim đua nở,
Bông trang chen nở,
Một cô thiếu nữ
Ngồi hát một mình.
- Hỡi cô ngồi hát một mình,
Vì ai cô hát đưa tình, hỡi cô?
Cái tính cách ý nhị, kín
đáo không giấu được lòng khao khát tình yêu đôi lứa của người thiếu nữ. Thành
ra, thơ Nam Trân thoắt có cái hồn nhiên, tỉnh nghịch mà dạn dĩ đáng yêu của ca
dao:
Hỡi chàng công tử kia ơi
Lòng em khao khát những lời ái ân!
Huế trong thơ của Nam
Trân, là Huế của những xuyến xao, những rung động khó vẽ thành hình. Huế trầm mặc,
cổ kính, nhưng nhà thơ đã tỉnh tế nhận ra đẳng sau nét trầm tư đó là một đáng vẻ
đa tình, quyến rũ.
Huế của nắng gió đời thường
Không phải ngẫu nhiên mà
Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam từng đánh giá rất cao về Nam Trân: “...tả cảnh
Huế chưa ai bằng Nam Trân. Nam Trân không rơi vào khuôn sáo là vì người không
mơ màng cũng không buồn vơ vẩn” (2). Quả thật, đây là một nhận định đủ sức khiến
cho bất kỳ nhà thơ nào từng dan díu với hồn Huế, tình Huế đều cảm thấy đố kị.
Tuy nhiên, đọc thơ Nam Trân viết về Huế, người đọc hẳn sẽ có phần đồng tình với
nhận định của Hoài Thanh. Như rất nhiều nhà thơ khác, Nam Trân nhận ra nét đẹp
trang đài, mơ màng của Huế, nhưng cũng lại khác rất nhiều nhà thơ khác, nhà thơ
xứ Quảng còn nâng niu cả nét lầm lũi cần lao, những giọt mồ hôi lao động hay những
khoảnh khắc thời tiết khắc nghiệt. Nói một cách khác, Nam Trân lọc được chất hoạ,
nét thơ từ mợi nguồn chất liệu mang tên Huế.
Từ thơ Nam Trân, có một xứ
Huế của những nắng gió đời thường hiển hiện, lạ lẫm nhưng cuốn hút. Ba bài thơ
Huế ngày hè, Huế đêm hè, Huế mưa dầm chính là những bức tranh theo trường phái
tả chân đặc trưng của nhà thơ. Được xem là một trong những đại biểu của trường
phái thơ tả chân, cùng với những cái tên như Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân,
Nam Trân khá trung thành với lối viết gần sự thật, tả đúng như sự thật. Nhà thơ
cảm nhận những cảnh vật có thật, đang hiện hữu trực tiếp bằng thị giác. Trong
quá trình ấy, nhà thơ thường tôn trọng tối đa sự tồn tại độc lập, khách quan của
đối tượng miêu tả, hiếm khi thể hiện lời bình luận hoặc bộc lộ cảm xúc cá nhân.
Nói theo nhận định của GS. Trần Đình
Sử, có thể xem đó là “một
nhãn quan tạo hình mới trong thơ với cái nhìn hướng ngoại” (3).
Cảnh mùa hè được mô tả
chân thực với đầy đủ những, nét đặc trưng của thời tiết và cảnh sắc ở Huế: cái
nắng gay gắt, tiếng ve rền rĩ, hoa phượng thắp lửa, người chen chúc hóng mát
trên cầu Trường Tiền trong những đêm oi ả. Vượt ra khỏi những cảm nhận có tính
khuôn mẫu về Huế, những hình ảnh xuất hiện trong thơ Nam Trân tái hiện một
khuôn mặt kinh thành mang nét trần tục, hay nói đúng hơn là những khoảnh khắc đời
của một miền thơ:
Lửa hạ bừng bừng cháy,
Lần ma trốt trốt bay
Tiếng ve rè rè mãi
Đánh đổ giấc ngủ ngày.
Đường sá ít người đi,
Bụi cây lắm kẻ múp,
Xơ xác quán nước chè,
Ra vào người tấp nập.
Huê phượng như giọt huyết,
Giỏ xuống phủ lề đường.
Mặt trời gay gay đỏ
Nhuộm đỏ góc sông Hương.
Tả chân, nhưng Nam Trân lại
tận dụng tối đa khả năng, biểu cảm của ngôn ngữ cũng như sức mạnh của tu từ. Hệ
thống các từ láy mà Nam Trân lựa chọn khá độc đáo: bừng, bừng, rè rè, gay gay..
.Chúng không miêu tả những nét mềm mại, mơ màng, những sắc thái trữ tình như
chúng ta vẫn hình dung mà lại nhấn vào những đặc trưng có phần “khắc nghiệt của
thời tiết mùa hè. Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ miêu tả mùa hè trong cả hai
khoảng thời gian nối tiếp khép kín là ngày và đêm. Ban ngày, không gian được
gia nhiệt bởi màu đỏ huyết của hoa phượng, âm thanh rền rĩ của tiếng ve; ban
đêm, nhiệt độ dường như không hề giảm xuống, đặc biệt qua hình ảnh nhịp cầu mộng
mơ trở thành nơi tránh nóng lý tưởng. Mùa hè ở Huế, oi bức và khắc nghiệt. Đến
cả mảnh trăng khuya cũng “trỏn trẻn” “nấp sau nhánh phượng khô”. Trong không
gian ấy, chỉ có tiếng sột soạt của áo quần làm nền cho tiếng rao lảnh lói “ai
ăn chè?”. Rõ ràng, trong tư tưởng của Nam Trân, cái đẹp và chất thơ không loại
trừ những đường nét, thanh âm của đời sống thường nhật. Hay nói cách khác, từ
trong cái khắc nghiệt chung của thời tiết miền Trung, nét thơ của Huế vẫn được
dung dưỡng một cách tròn trịa. Huế đẹp không chỉ ở nét kiêu sa trang đài, Huế
còn đẹp dân đã, bình dị, cái đẹp đượm hơi thở của cuộc sống cần lao.
Trời nóng băm bốn độ.
Đèn, sao khắp đế đô,
Mặt trăng vàng, trỏn trẻn
Nấp sau nhánh phượng khô.
Ba dịp cầu Trường Tiền
Đứng dày người hóng mát;
Ngọn gió Thuận An lên,
Áo quần kêu sột sạt.
Hai tay xách hai vịm,
Một vài mụ le te,
Tiếng non rao lảnh lói:
Chốc chốc: “Ai ăn chè?”
Một đặc sản khác của Huế
cũng được Nam Trân nhắc đến: những cơn mưa tầm tã day dứt, miên man từng không ít
lần đẫm ướt trang thơ, kiểu “nỗi niềm chỉ rứa Huế ơi, mà mưa xối xả trắng trời
Thừa Thiên”. Nam Trân viết về mưa Huế không ngại ngần tránh né, không tô chuốt
theo kiểu lãng mạn mà nhấn sâu vào những nét xám buồn, lặng lẽ:
Đã quá nửa tháng rồi
Mà mưa, mưa chẳng dứt.
Lúng túng cảnh nhà pha,
Ai ai xem cũng bực.
Rải rác, chú phụ xe
Co ro thân mèo ướt,
Lóng ngóng các ngã ba,
Lù xù như gà xước.
Hình ảnh so sánh “co ro
thân mèo ướt”, “lù xù như gà xước” gợi lên lòng trắc ẩn sâu kín của người đọc.
Thế mới hiểu, Nam Trân cảm Huế không chỉ bằng cái tình si mê mà còn bằng cả sự
nhạy cảm của một tâm hồn nghệ sĩ, bằng con mắt thấu hiểu dành cho những người
lao động bình thường, bé nhỏ. Có thể, đó cũng là tinh thần mà các nhà thơ thuộc
trường phái tả chân muốn hướng đến. Với Nam Trân, Huế là bức tranh được khảm bằng
nhiều miếng ghép: cô gái Kim Luông, Sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ, Cánh đồng
An Cựu, vườn cau Nam Phổ, hồ Tịnh Tâm... Chỉ xét riêng hệ thống nhan đề của từng
bài thơ cũng có thể nhận ra Huế của riêng Nam Trân, là hình tượng Huế bình dị,
mộc mạc, thanh cao nhưng không đài các mà gần gũi với cuộc sống của con người.
Nhà
nghiên cứu Phạm Phú Phong trong bài viết Nam Trân với Huế đẹp và thơ đã
nhận định: “Trước ông (Nam Trân) cũng đã từng có nhiều người nói đến vẻ đẹp và
thơ mộng của xứ Huế, nhưng đúc kết thành hình tượng nghệ thuật, đóng khung
thành bức hoành phi rực rỡ, có lẽ ông là người đầu tiên“ (4). Hoặc giả, cũng có
thể khẳng định “Huế, Đẹp và Thơ đã trở thành một “thương hiệu” đáng tự
hào của thi sĩ Nam Trân” (5),
Hồn Huế trong thơ Nam Trân
còn được thể hiện qua trường liên kết những yếu tố chỉ dẫn thuộc văn hoá, văn học
dân gian, là nét riêng của Huế được nhà thơ kết nối vào văn bản. Hầu hết các
bài thơ của Nam Trân đều có lời đề tặng/ những câu đề từ trích ý từ ca đao dân
ca hoặc từ những câu thơ mang phong vị dân gian. Mở đầu bài Cô gái Kim Luông
là câu thơ tương truyền của vua Thành Thái: “Kim Luông nhiều ả mỹ miều/ Trẫm
thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi”. Các cô gái Kim Long xưa có xuất thân
danh gia vọng tộc, biết làm các nghề thủ công truyền thống (như dệt lụa), là biểu
tượng của những gì tinh tế, trong trẻo, tinh khôi, như thứ nước nguồn trong vắt
đoạn giữa sông Hương và tán cây trái xum xuê bên trong những khu nhà vườn im mát.
Trong bài Vườn cau Nam Phổ, lời đề từ lại là nét tinh nghịch trào tiếu về
tính cách của con gái vùng này: “Cô gái Nam Phổ ở lỗ trèo cau”. Nét tỉnh
nghịch này in hẳn trong những câu thơ tiếp đó:
Trung thu: cô độc quả trăng tròn...
Chỉ có sân Trời vắng trẻ con.
Ánh lướt da cau phơi vẻ trắng:
Thoạt trông còn ngỡ chiếc đùi non.
Rõ ràng,
có một mối dây liên tưởng giữa “ở lỗ trèo cau“ và “đùi non”. Người đọc ngỡ như
nhìn thấy nụ cười hóm hỉnh của nhà thơ, đồng thời cũng ngỡ ngàng trong thứ cảm
nhận mới mẻ chưa từng có về dáng vẻ của người con gái thôn quê.
Trong bài Huế đêm hè,
Nam Trân lại viết về thanh âm đờn hát bên sông với tên của một làn điệu đặc
trưng: “Tiếng, đờn chen tiếng hát/ Thánh thót điệu Nam Bường”. Đời sống trên sông,
đặc biệt về đêm, chính là một phần văn hoá của xứ kinh kì. Nó mang lại hơi thở
phồn hoa bí ẩn, là duyên cớ của biết bao mối tình tài tử giai nhân, là nét
phong lưu tình tứ của nhan sắc Huế. Nam Trân cũng từng đề cập đến những làn điệu
sông nước này trong một số bài thơ khác của mình:
Đêm thu trăng tỏ nước mờ,
Chiếc thuyền bé tí bên bờ cỏ hoen;
Điệu đờn vút tận cung tiên,
Ung dung tỏa nhẹ xuống miền nhân gian
Ru hồn một giấc mang mang
Êm như mặt nước mơ màng biếng trôi.
(Núi Ngự sông Hương)
Trăng lên xóa đốm sao mờ.
Sông Hương thuyền đậu còn chờ khách xuân;
Khách xuân lải rải xuống thuyền...
Gió êm ru tiếng độc huyền, não thay!
(Cánh cửa)
Và như thế,
Nam Trân đã giới thiệu đến độc giả một xứ Huế của những vua chúa đa tình, nơi
có Kim Luông thành danh là miền sinh dưỡng nhiều người con gái đẹp, nơi có cả một
nền âm nhạc cổ điển sinh thành trên sóng nước Hương Giang, lại cũng là nơi dung
chứa những lam lũ, cần lao của phận người. Bút pháp tả chân được Nam Trân sử dụng
nhuần nhuyễn, tuy dụng tâm tả thực nhưng không thiếu nét mềm mại do sự chêm xen
của ít nhiều yếu tố xúc cảm - điều vốn dĩ ít xuất hiện trong trường phái thơ tả
chân. Thơ Nam Trân không hẳn tân kì hay sáng tạo, nhưng lại có nét mộc mạc,
thân cận, đặc biệt nao lòng những ai từng một lần đến Huế, hiểu Huế và yêu Huế.
Nhà thơ đã chứng minh rằng, gắn bó, lưu luyến một miền đất, chính là đặt nó sâu
trong trái tim mình, lặng lẽ cảm nhận, không chỉ những vết dấu phù hoa, những
bí ẩn mơ màng, mà còn cả hương vị của đời sống đời thường, cả những trăn trở lặng
lẽ chưa thành hình của nhân sinh./.
(1), (2) Xin xem Hoài
Thanh, Hoài Chân: Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học (tái bản), Hà Nội, tr.179,
114.
(3) Xin xem Trần Đình Sử:
“Thơ mới và sự đổi mới thi pháp thơ trữ tình tiếng Việt”, Tạp chí Văn học, số
6, 1993.
(4) Xin xem Phạm Phú
Phong: “Nam Trân với Huế đẹp và thơ”,
http://vannghedanang.org.vn/nam-tran-voi-hue-dep-va-tho-8135.html
(6) Xin xem Lưu Khánh Thơ:
“Sự gắn bó giữa không gian Huế và tâm hồn thi nhân”, Tạp chí Sông Hương số 229,
2008.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét