Người phát hiện ra Huế đẹp và thơ
Từ năm 1942, các tác giả Thi nhân Việt Nam đã khẳng định: “Tả cảnh
Huế chưa ai bằng Nam Trân (…) Nam Trân đã tìm ra một khoảnh đất mới và ở đó,
người đã dựng lên-ý chừng để sát nhập vào làng thơ Việt-cái cảnh núi Ngự sông
Hương. Thiết tưởng vì tình láng giềng đất Quảng Nam không thể gửi ra xứ Huế món
quà nào quý hơn nữa: lần thứ nhất những vẻ đẹp của xứ này được diễn ra
thơ”(TNVN, tr.181).
Đúng là Huế đẹp và nên thơ là
câu nói cửa miệng, là ý nghĩ thường trực trong tâm tưởng của mọi người, mỗi khi
nhớ đến Huế. Nhưng ít ai phả cảm xúc thành nội dung mỹ cảm, đúc kết thành câu
chữ, thành thơ, thành hình tượng, không chỉ vượt được thử thách của thời gian,
lan tỏa trong không gian, mà còn đi sâu vào tiềm thức, thành vô thức dân gian,
vô thức tập thể, có sức sống bền vững trong tâm thức mọi người như thế này:
Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng
Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo
Tôi xuống thuyền cô, cô chẳng biết
Rằng Thơ thấy Đẹp phải tìm theo
Thuyền qua đến bến: cô lui lại
Vẩy chiếc chèo ngang: giọt nước gieo
Đăm đăm mắt mỏi vì chèo,
Chèo cô quấy nước trong veo giữa dòng
Biết không? Cô hỡi, biết không?
Chèo cô còn quấy, sóng lòng còn xao!
Nam Trân Nguyễn Học Sĩ (1907-1967) sinh ra ở
làng Phú Thứ Thượng, Đại Quang, Đại Lộc, Quảng Nam, chỉ sống ở Huế trong một thời
gian ngắn lúc còn học trường Quốc Học và mấy năm làm Tham tá ở tòa Khâm sứ Huế.
Ngay cả bút danh Nam Trân đã biểu hiện những tình cảm gắn bó của ông với xứ Huế.
Tương truyền, trên bước đường chinh chiến, có lần Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn
truy đuổi, chạy vào vùng núi Đại Lộc quê ông, đói khát đến lả người, hái trái
lòn bon ăn qua cơn đói. Vì vậy, sau khi lên ngôi, vua Gia Long ban cho loại
trái cây này tên là Nam Trân (vật quý của xứ Quảng Nam) và được chạm khắc vào
Nhân đỉnh (một trong Cửu Đỉnh). Ngoài mấy tập thơ dịch (Nhật
ký trong tù, Thơ Đường, Thơ Tống), sự nghiệp sáng
tác của ông chỉ vỏn vẹn có 50 bài thơ in rải rác trên các báo và tạp chí như Nam
Phong tạp chí, Văn học tạp chí, Phong Hóa, Tràng An, Sông Hương và Tân Tiến (Sa Đéc) gom
lại in thành tập Huế Đẹp và Thơ (1939) mà đi
vào sử sách. Tập thơ ra đời trong bối cảnh phong trào thơ mới đang suy tàn, đi
vào tượng trưng, nhục cảm, nhưng vẫn giữ được hơi thơ trong trẻo, xúc cảm chân
thành, lời thơ giản dị, thanh thoát, toát lên vẻ đẹp ấm áp của ánh nắng mùa
xuân (Trước
chùa Thiên Mụ, Tiếng chuông Diệu Đế, Cô gái Kim Luông, Giận khúc Nam
ai, Nắng thu…). Nếu đòi hỏi khắt
khe về phương diện nghệ thuật, có thể thấy vài câu còn thiếu sự gọt giũa về từ
ngữ, nhưng cái nhìn thực tại thể hiện một cảm quan hết sức hiện đại:
Huế phượng, như giọt huyết / Rỏ xuống phủ lề đường / Mặt trời gay gay đỏ / Nhuộm
đỏ góc sông Hương (Huế, ngày hè), hoặc đôi khi dẫn dắt cảm thức người đọc quay lại nhìn dấu vết
lịch sử của một thời đã qua như đường nét trên những công trình kiến trúc đền
đài lăng tẩm, thông qua chân dung người phụ nữ xưa đang rao quà vặt: Hai
tay xách hai vịm / Một vài mụ le te / Tiếng non rao lảnh lói / Chốc chốc: Ai ăn
chè?(Huế, đêm hè). Huế trong thơ Nam Trân không chỉ đẹp
và thơ, mà còn in dấu bước
thời gian, soi bóng dáng của không gian, sóng sánh dưới dòng sông trong xanh
muôn đời lững lờ xuôi về biển cả. Điều lạ lùng là, nước sông luôn hòa tan vào
biển, nhưng không bao giờ biển có thể nhạt hơn, biển muôn đời vẫn mặn mà, sôi động,
trước sự ngọt ngào, dịu dàng đến mức đánh mất cả bản thân mình của những dòng
sông.
Cuộc
đời của Nam Trân, từ sau cách mạng (1945) kinh qua nhiều cương vị công tác
trong Ủy ban Hành chính kháng chiến huyện Đại Lộc, Ủy ban Hành chính kháng
chiến tỉnh Quảng Nam, rồi làm Chánh Văn phòng Ủy ban Hành chính kháng chiến
liên khu Năm, kiêm Hội trưởng Hội Văn nghệ liên khu Năm. Sau 1954, ra Bắc, ông
trở lại với văn chương, làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa II,
về công tác ở Viện Văn học (1959-1967), phụ trách tiểu ban dịch thơ chữ Hán,
tham gia giảng dạy lớp đại học Hán học đầu tiên (1965-1968) và là người đầu
tiên dịch Nhật
ký trong tù ra chữ quốc ngữ. Điều thú vị là, ngay ở lần in đầu
và cả những lần tái bản gần đây, người ta vẫn dùng bản dịch tài hoa của Nam
Trân, in kèm với bản chữ Hán qua “nét bút tài hoa của cụ Phạm Phú Tiết” (Lời
nói đầu Nhật
ký trong tù), một người đồng hương của chính dịch giả.
Theo
Phạm Phú Phong – Báo Thừa Thiên Huế
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét