Tiếng Thơ Bốn
Mùa
Linh Thảo
Các nhà thơ Việt cổ điển thường làm thơ tả bốn
mùa như các họa sĩ vẽ tranh tứ bình (mai, lan, cúc, trúc), nghĩa là chú trọng
mô tả cảnh vật thiên nhiên hơn là tình người, như bài “Tứ Thời Thi“ của nữ sĩ
Ngô Chi Lan, “Thu Điếu“ của Nguyễn Khuyến. Có chăng là “cảnh người” như bài
“Ngày xuân ngẫu hứng” của Tú Xương:
Xuân từ trong
ấy mới ban ra
Xuân chẳng riêng
ai khắp mọi nhà
Cuộc đô hộ của
người Pháp làm thay đổi khá nhiều nếp sống của người Việt và sự hình thành chữ
quốc ngữ đã đưa đến một nền văn học mới, chịu ảnh hưởng Âu Tây.
Riêng về thi ca,
một phong trào được dấy lên với trường “thơ mới”, vào thập niên 1930-1940, đã
để lại một kho tàng phong phú thường mệnh danh là thơ tiền chiến.
Các nhà thơ này
có khuynh hướng lãng mạn, như “école romantique” ở Pháp vào thế kỷ thứ 19. Họ
quan niệm tình yêu như là động lực chính để biểu hiện tình cảm của con người
trong khung cảnh thơ mộng của thiên nhiên. Do đó thi ca của họ có màu sắc trữ
tình lãng mạn.
Thiên nhiên với
bốn mùa, do thời tiết làm sinh động, hiện diện trong thơ họ đậm đà ý vị và đầy
hình ảnh mượt mà, gợi nên từ những tâm tình yêu đương.
Một tiếng chim,
một dáng trời trong với bóng người thiếu nữ ngồi hong tóc bên song cửa là cả
một niềm xuân dậy lên trong lòng nhà thơ
Trời đẹp như
trời mới tráng gương
Chim ca tiếng
sáng rộn ven tường
Có ai bên cửa
ngồi hong tóc
Cho chảy lan thành
một suối hương
(Hồ Dzếnh - Xuân Ý)
Mùa xuân, khởi
từ ngày nguyên đán, tức là ngày đầu năm âm lịch, là mùa vui tươi nhất trong một
năm. Vạn vật hồi sinh, cây đâm chồi nẩy lộc rồi hoa nở rực rỡ khắp trên
cành, trong khóm lá. Nhà thơ Xuân Diệu có một cảm quan tinh vi khi
thấy xuân chớm mùa, qua cỏ cây vừa sống dậy:
Lá bàng non ngon
lành như ăn được
Trời mới tạnh mà
lá mới ướt như mưa
Lá bàng thắm
trên cành phô sắc biếc
Gió rào rào tốc
mái lá còn thưa
Tôi đi giữa buổi
đầu ngày giữa buổi
đầu xuân đi
giữa buổi đầu tiên
Thấy trước mắt
cuộc đời vừa mới mở
Và ban đầu cây
với gió cười duyên.
Với Nguyễn Bính,
mùa xuân đượm vẻ tình tứ qua màu má, nét mắt của người con gái đang xuân:
Đã thấy xuân về
với gió đông
Với trên màu má
gái chưa chồng
Bên hiên hàng
xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn
trời đôi mắt trong
(Xuân về)
Với Nguyễn Giang
thì xuân phơ phất trong những tà áo nữ sinh, trong dáng người đẹp đi qua:
Gió xuân phơ
phất thổi trong cành
Lớp lớp bên
đường bóng lá xanh
Cây cỏ cười tươi
hoa mũm mĩm
Học sinh qua lại
áo phong phanh...
Bờ suối chờ ai
chưa thấy lại
Nhìn cô áo đẹp
bước đi nhanh
(Xuân)
Người ta thường
nói mùa xuân xanh, xuân hồng, ít ai nói đến mùa xuân chín như Hàn Mặc tử, bởi
vì khi nhà thơ thấy bóng xuân sang thì nhớ đến làng quê với cánh đồng lúa chín
vàng với nàng thôn nữ gánh thóc duyên dáng:
Khách xa gặp lúc
mùa xuân chín
Lòng trí bâng
khuâng sực nhớ làng
- Chị ấy năm nay
còn gánh thóc
Dọc bờ sông
trắng nắng chang chang?
(Mùa xuân chín)
Mùa xuân trên
đất Việt vẫn liên quan với cái Tết, mỗi lần xuân về, Tết đến thì con người qua
một tuổi đời. Và người con trai, con gái dần lớn lên với tâm hồn yêu đương bồng
bột như mùa xuân đang lên:
Muôn màu tươi
sáng phấn hoa hương
Đời ngọt ngào
như có vị đường
Tôi sống tôi say
và mỗi Tết
Lòng tơ thêm
đọng chút yêu đương
Khói pháo say
người rượu ái ân
Cõi lòng thắm nở
một vườn xuân
Nàng thơ năm ấy
cười mê đắm
Trong mắt em
Nhung hiện giữa trần
(Lan Sơn- Tết và
người qua)
Đối với Xuân
Diệu thì xuân không chỉ ở thiên nhiên, xuân còn ở trong lòng người:
Một ít nắng vài
ba sương mỏng thắm
Mấy cành xanh
năm bảy sắc yêu yêu
Thế là xuân. Tôi
không hỏi chi nhiều
Xuân đã sẵn
trong lòng tôi lai láng
(Xuân không mùa)
Nhất là khi nhà
thơ đang yêu:
Xuân của đất
trời nay mới đến
Trong tôi xuân
đến đã lâu rồi
Từ lúc yêu nhau
hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát
của hồn tôi
(Nguyên Đán)
Và ngược lại,
Xuân Diệu thấy mùa xuân ở nụ cười của thiếu nữ, cũng đang yêu:
Thiếu nữ bâng
khuâng đợi một người
Chưa từng hẹn
đến - giữa xuân tươi
Cùng chàng trai
trẻ xa xuôi ấy
Thiếu nữ làm
duyên đứng mỉm cười
(Nụ cười xuân)
Và khi yêu, nhà
thơ thấy đời ngắn ngủi, qua hình bóng mùa xuân đến, mùa xuân đi:
Xuân đang tới
nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non
nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết
nghĩa là tôi cũng mất...
Cho nên người
muốn tận hưởng hương vị của mùa xuân trong tuổi xuân:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới
bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây
đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh
bướm với tình yêu
Ta muốn thâu
trong một cái hôn nhiều
Và non nước và
cây và cỏ rạng
Cho chếnh choáng
mùi thơm cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh
sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng ta
muốn cắn vào ngươi
(Vội vàng)
Nhà thơ muốn
“cắn xuân hồng” tức là muốn sống hết mình với tất cả tươi mát, thanh xuân của
cuộc đời. Huy Cận thì cảm xuân như là một nguồn sống đem lại niềm vui, hy
vọng và tình duyên cho con người:
Xuân gội tràn
đầy
Giữa lòng hoan
lạc...
Hai hàng cây
xanh
Đâm chồi hy vọng
Ôi duyên tốt
lành...
Chiều xuân tươi mạnh
Gió bay vào
hồn...
Người cô yểu
điệu
Nghe mình nao
nao
(Chiều xuân)
Trong khi Xuân
Diệu và Huy Cận ham sống với tuổi xuân tươi trẻ, thì Nguyễn Bính nâng chén rượu
xuân cay nồng chia tay với người tình:
Cao tay nâng
chén rượu hồng
Mừng em: em sắp
lấy chồng xuân nay
Uống đi! Em uống
cho say
Để trong mơ sống
những ngày xuân qua
(Rượu Xuân)
Người tình của
thi nhân có lẽ có một số phận như công chúa Huyền Trân ngày xưa, nghĩa là bị ép
uổng tình duyên:
Hôm nay là xuân
mai còn xuân
Phơi phới
mưa sa nhớ cố nhân
Phận gái
ví theo lề ép uổng
Đã về Chiêm quốc
như Huyền Trân
Cho nên xuân về,
Tết đến người đóng cửa lòng lại, dù bên ngoài hoa xuân nở rộ:
Huyền Trân ơi
Mùa xuân, mùa
xuân, mùa xuân rồi
Giờ đây chín vạn
bông trời nở
Duy có tình ta
khép lại thôi!
(Nhạc Xuân)
Cho dù đường
tình lận đận, người ta cũng không có thái độ phũ phàng đối với mùa xuân, như
Chế Lan Viên:
Tôi có chờ đâu
có đợi đâu
Đem chi xuân lại
gợi thêm sầu
Với tôi tất cả
như vô nghĩa
Tất cả không
ngoài nghĩa khổ đau
(Xuân)
Nhà thơ đau khổ
vì một nguyên nhân nào đó. Tình phụ chăng? Không. Thật ra, người
chỉ thích mùa thu:
Ô hay, tôi lại
nhớ thu rồi...
Mùa thu rớm
máu rơi từng chút
Trong lá
bàng thu đỏ ngập trời
Đường về thu trước
xa lăm lắm
Mà kẻ đi về chỉ
một tôi!
Thi sĩ yêu
mùa thu mà không ưa mùa xuân:
Ai đâu trở lại
mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi
những lá vàng
Với của hoa tươi
muôn cánh rã
Về đây đem chắn
nẻo xuân sang
(Xuân)
Nhưng không phải
chỉ có Chế Lan Viên yêu mùa thu. Mùa thu không rực rỡ, tươi
thắm như mùa xuân, nhưng có sương tỏa, trăng mờ, có lá rụng, có “tầng mây lơ
lửng trời xanh ngắt - Nguyễn Khuyến”, cảnh vật nhuốm vẻ thơ mộng, gợi hứng cho
nhiều thi nhân...
Cũng chính Xuân
Diệu cho ta cái cảm giác lạ về mùa thu, có cái gì mơ màng, bâng khuâng,
man mác ở quanh ta:
Rặng liễu đìu
hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông
xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới
mùa thu tới
Với áo mơ phai
dệt lá vàng
Hơn một loài hoa
đã rụng cành
Trong vườn sắc
đỏ rủa màu xanh
Những luồng run
rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô
gầy xương mỏng manh
Thỉnh thoảng
nàng trăng tự ngẩn ngơ
Phương xa khởi
sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt
luồng trong gió
Đã vắng người
sang những chuyến đò...
(Đây mùa thu tới)
Hay:
Nõn nà sương
ngọc quanh thêm đậu
Nắng nhỏ bâng
khuâng chiều lỡ thì
Hư vô bóng khói
trên đầu hạnh
Cành biếc run
run chân ý nhi
Gió thầm mây
lặng dáng thu xa
Mới tạnh mưa
trưa chiều đã tà
Buồn ở sông xanh
nghe đã lại
Mơ hồ trong một
tiếng chim qua
(Thu)
Bích Khê mô tả
mùa thu với biển lá vàng rơi:
Ô hay buồn vương
cây ngô đồng
Vàng rơi vàng
rơi thu mênh mông!
Mùa thu với
lá rụng hoa tàn thường gây nỗi buồn man mác trong lòng người:
Những chút hồn
buồn trong lá rụng
Bị nhàu ai tưởng
dưới trăm chân
Bông hoa rứt
cánh rơi không tiếng
Chẳng hái mà hoa
cũng hết dần
(Xuân Diệu -
Thu)
Nhất là khi
người ta sống trong cô đơn hiu quạnh:
Hai tay ôm
lá vào lòng
Than ôi chiếc lá
cuối cùng là đây
Quạnh hiu như
tấm thân này
Lại âm thầm sống
những ngày gió mưa
(Nguyễn Bính -
Cây bàng cuối thu)
Chẳng khác gì
Verlaine ở phương Tây thuở trước:
Et je m’en
vais
Au vent mauvais
Qui m’emporte
Decà delà
Pareil à une
feuille morte.
(Và tôi ra đi
Trong gió hắt
hiu
Cuốn tôi theo nó
Vật vờ đây đó
Như là
Lá khô)
Nhưng mùa thu vẫn
là mùa thu của thơ mộng khi nhà thơ tưởng nhớ đến cảnh rừng thu mà người có dịp
chiêm ngưỡng:
Em không nghe
rừng thu
Lá thu kêu
xào xạc
Con nai vàng ngơ
ngác
Đạp trên lá vàng
khô?
(Lưu Trọng Lư -
Em không nghe mùa thu)
Mùa thu buồn
nhưng vẫn là một mùa đẹp trong năm. Sương mờ, mây bàng bạc gió hắt hiu, lá
rơi rụng... gây niềm bâng khuâng cho con người trước khung cảnh êm đềm, trầm
lặng của thiên nhiên.
Khác với thu,
mùa đông đến với trời mây ảm đạm, gió lê thê lạnh buốt khiến hồn người ủ rũ,
buồn chán.
Hẳn không ai
quên bài “Mưa dầm giố bấc” trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư” được học từ thuở
nhỏ:
“Về mùa đông,
gặp khi mưa dầm gió bấc thì phong cảnh thật tiêu điều buồn bã...”, với
hình vẽ một người mang tơi đội nón đi trong mưa dầm.
Có lẽ vì vậy mà
ít nhà thơ mô tả cảnh mùa đông. Trong tập “Thi nhân Việt Nam” của
Hoài Thanh và Hoài Chân chỉ thấy dẫn một bài của Nam Trân, nhà thơ đất Quảng,
làm việc ở Huế, tả cảnh mùa đông, một trong những cảnh ở cố đô mà thi nhân sáng
tác, trong tập “Huế đẹp và thơ”:
Lá bàng
Như lá vàng
Rụng.
Ôi! đìu hiu
Cảnh chiều
Đông!
Ruộng ngập: mênh
mông
Nước phẳng.
Cò bay, yên
lặng,
Quanh đồng.
Thi tứ viển
vông:
Thần tưởng tưởng
Như đàn cò đói
lượn
Đồng không.
(Mùa Đông)
Cảnh mùa đông
buồn áo não mà tình trong mùa đông cũng buồn vời vợi khi đôi lứa phải cách xa:
Đôi mắt em lặng
buồn
Nhìn thôi và
chẳng nói
Tình đôi ta vời
vợi
Có nói cũng
không cùng
Yêu hết một mùa
đông
Không một lần đã
nói
Nhìn nhau buồn
vời vợi
Có nói cũng
không cùng
Trời hết một mùa
đông
Gió bên thềm
thổi mãi
Qua rồi mùa ân
ái
Đàn sếu đã sang
sông...
(Lưu Trọng Lư -
Một mùa đông)
Dù sao, người ta
cũng thích mùa hè hơn, dù với thời tiết oi ả, nóng bức:
Ai xui con cuốc
gọi vào hè
Cái nóng nung
người nóng nóng ghê...
(Thơ cổ)
Nhưng cuộc sống
của con người vẫn náo nức, hoạt động hơn là cái chết lặng của mùa đông.
Cũng nhà thơ Nam
Trân say mê cảnh đẹp và thơ của Huế, đã mô tả Huế với cơn lửa hạ, tiếng ve, hoa
phượng đỏ - mà Xuân Diệu từng gọi là hoa học trò - trong ngày hè:
Lửa hạ bừng bừng
cháy
Làn ma trốt trốt
bay
Tiếng ve rè rè
mãi
Đánh đổ giấc ngủ
ngày
Hoa phượng như
giọt huyết
Dỏ xuống phủ lề
đường
Mặt trời gay gay
đỏ
Nhuộm đỏ góc
sông Hương
(Huế Ngày Hè)
Và Huế trong đêm
hè:
Trời nóng băm
bốn độ
Đèn sao khắp đế
đô
Mặt trăng vàng
trỏn trẻn
Nấp sau nhánh
phượng khô
Ba dịp cầuTrường
Tiền
Đứng dày người
hóng mát
Ngọn gió Thuận
An lên
Áo quần kêu sột
soạt
Đủng đỉnh chiếc
thuyền nan
Qua lại bến sông
Hương
Tiếng đờn chen tiếng
hát
Thánh thót
điệu Nam Bường
Với một hoạt
cảnh đặc biệt:
Hai tay xách
hai vịm
Một vài mụ
le te
Tiếng non rao
lảnh lói
Chốc chốc: “
Ai ăn chè?”
(Huế đêm hè)
Đó là cảnh hè ở
thị thành. Ở thôn quê, mùa hè cũng điểm cho cảnh vật những nét riêng:
Trời trong biếc
không qua mây gợn trắng
Gió nồm nam lộng
thổi cánh diều xa
Hoa lựu nở đầy
một vườn đỏ nắng
Lũ bướm vàng lơ
đãûng lướt bay qua
Trong thôn vắng
tiếng gà xao xác gáy
Các bà già đưa
võng hát, thiu thiu...
(Anh Thơ - Trưa
hè)
Hay là:
Dưới gốc đa già
trong vũng bóng
Nằm mát đàn trâu
ngẫm nghĩ nhai
Ve ve rung cánh
ruồi say nắng
Gà gáy trong
thôn những tiếng dài
Quán cũ nằm lười
trong sóng nắng
Bà hàng thưa
khách ngả thiu thiu
Nghe mồ hôi chảy
đầm như tắm
Đứng lặng trong
mây một cánh diều
(Bàng Bá Lân-
Trưa hè)
Dù sao, mùa hè
cũng là mùa vui thích đối với những học sinh sắp được nghỉ học, sau nhiều tháng
miệt mài với sách vở và mùa thi, lòng nao nức khi thấy hoa phượng nở và tiếng
ve kêu:
Sung sướng quá
giờ cuối cùng đã hết
Đoàn trai non
hớn hở rủ nhau về
Chín mươi ngày
nhảy nhót ờ vườn quê
Ôi tất cả mùa
xuân trong mùa hạ...
Trong khoảnh
khắc sách bài là giấy cũ
Nhớ làm chi thầy
mẹ đợi em trông
Trên đường về
huyết phượng nở thành bông
Và vườn rộng
nhiều trái cây ngon ngọt
(Xuân Tâm - Nghỉ
hè)
o0o
Các nhà thơ thời
kỳ 1930 -1940 có khuynh hướng lãng mạn (không bị câu thúc về hình thức và nội
dung) đã dổi mới lời thơ, ý thơ, chủ yếu để biểu đạt một cảm thức mới. Vì
vậy, khi mô tả thiên nhiên, qua bốn mùa, thì có cảnh, có người, có tình, ba yếu
tố trộn lẫn vào nhau làm cho thơ, có hồn, gợi cảm, và yếu tố thứ ba (tức là
tình) là yếu tố dễ làm rung động lòng người hơn cả.7
Linh Thảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét