NAM TRÂN - CON NGƯỜI TÀI HOA CỦA QUẢNG NAM
Vân Trình
LTS: Câu lạc bộ Văn Học Nam Trân Đại Lộc, Q.Nam vừa ra mắt được
vinh dự mang tên nhà thơ lớn của quê hương Đại Lộc: Nam Trân. Nhằm giúp bạn đọc
hiểu thêm về thân thế và sự nghiệp của một con người tài hoa không chỉ của địa
phương mà còn được lưu dang cả nước, chúng tôi đăng tải bài viết này để thể hiện
niềm tự hào về đất và người quê hương (đồng thời để tránh có sự hiểu nhầm từ một
số bạn đọc về tên gọi Nam Trân – mỹ từ để chỉ trái loòng boong – đặc sản của miền núi xứ Quảng).
Vân Trình trong buổi ra mắt CLB VH NT - tháng 12/ 2014
Vân Trình: Tên thật
Phan Vân Trình
Trưởng Phòng VHTT kiêm
Giám đốc Tr. Tâm VHTT huyện Đại Lộc, Q.Nam
Vậy là, đến
mùa xuân này, Nam Trân đã xa chúng ta 48 năm nhưng những dấu ấn để đời của nhà
văn hoá, nhà thơ, dịch giả tài hoa ấy vẫn còn rất đậm nét.
Nam Trân tên
thật là Nguyễn Học Sĩ, sinh ngày 15/2/1907 ở làng Phú Thứ Thượng, nay thuộc
thôn Mỹ An, xã Đại Quang, huyện Đại Lộc. Ông học chữ Hán đến năm 12 tuổi, sau
đó theo học trường Quốc học Huế, rồi trường Bảo Hộ Hà Nội. Đỗ tú Tài, ông làm
Tham tá Toà Khâm sứ Huế, tiếp đó làm Tá lý Bộ Lại của chính phủ Nam triều.
Sống và làm việc
ở sứ sở sông Hương, núi Ngự, năm 1939, ông cho xuất bản tập thơ đầu gồm 37 bài
(trên cơ sở tập hợp các bài thơ đã đăng tên các báo: An Ninh tạp chí, Văn học tạp
chí, Tràng An báo, Phong Hoá, Sông Hương, Tiên Tiến...). Dụng ý của các tác giả
là muốn "tỏ lòng thành đối với thi ca nước nhà" nhưng không ngờ chính
tập thơ- có tên gọi rất ấn tượng Huế đẹp và thơ - đã ghi tên ông vào lịch sử văn
học nước nhà ngay ở những thập niên đầu thế kỷ XX với vị thế độc đáo, có một
không hai.
Đọc tập thơ
này, ta đễ dàng nhận ra Nam Trân là người luôn chịu khó đi tìm sự cách tân
trong thi ca. Thơ Nam Trân mỗi bài là một bức tranh nhỏ, trong đó ít nhiều đều
có những nhận xét tinh tường, đặc sắc. Điều đáng nói là âm điệu thơ khá dồi dào
và trước mỗi cảnh, mỗi tình đều có một điệu thơ thích hợp. Ngay cả trong một
bài thơ có đến hai ba điệu thơ. Câu thơ cũng luôn biến hoá, số chữ có khi là 1
và đôi lúc lên đến 10.
Nam Trân là một
thi sĩ lãng mạn và nhiệt thành cổ suý cho phong trào "Thơ mới". Thế
nhưng, đôi khi ta bắt gặp những câu thơ "rất lạ" loé sáng trong bầu
không khí khá u buồn của dòng thơ này:
Đừng kể nữa những
mảnh tình tan tác
Hãy đứng lên,
Nhạc sĩ, với tôi đi!
Tôi ghét anh
mê giọng hát sầu bi
Và tung mãi
tâm hồn thừa truỵ lạc
Hãy đứng dậy!
Vứt chiếc cầm ảo não!
Tôi cần nghe
những khúc nhạc rất hùng
- Thét ngựa
lòng phi mãi chẳng chồn chân-
Sáng như gươm
tuốt, mạnh như luồng bão...
(Giận khúc Nam ai)
Đặc biệt, Nam
Trân đã sáng tạo ra một phong cách lạ cho thơ- một dấu ấn khó quên trên văn đàn
nước Việt nửa đầu thế kỷ trước. Đó là một lối thơ mà Hoài Thanh - đồng tác giả
Thi nhân Việt Nam gọi là lối thơ tả chân. Hoài Thanh nhận xét: Lối thơ tả chân
vốn xưa ta không có. Đây đó rải rác cũng
nhặt được đôi câu; nhưng đến Nam Trân mới biệt thành một lối. Nam Trân
đã tìm ra khoảnh đất mới và ở đó người ta đã dựng lên - ý chừng để sát nhập
làng thơ Việt - cái cảnh núi Ngự sông Hương.
Một đóng góp nữa
của Nam Trân trước Cách mạng tháng Tám mà thiết nghĩ cần được hậu thế nhìn nhận
và trân trọng: ông là người đầu tiên quảng bá hình ảnh hai Di sản Văn hoá Thế
giới (Huế và Hội An) qua ngôn ngữ thi ca. Ngay từ bài mở đầu tập “Huế đẹp và
thơ”, người đọc có thể tìm thấy ở đó những tình cảm trong trẻo, những khoảnh khắc
của cái đẹp ở xứ Thần kinh được gợi mở và hình như cứ - lan - toả - mãi:
Thuyền nan đủng
đỉnh sau hàng Phượng
Cô gái Kim
Luông yểu điệu chèo
Tôi xuống thuyền
cô, cô chẳng biết
Rằng thơ thấy
đẹp phải tìm theo
Thuyền qua đến
bến, cô lui lại
Vẩy chiếc chèo
ngang: giọt nước gieo
Đăm đăm mỏi mắt
vì chèo
Chèo cô khuấy
nước trong veo giữa dòng
Biết không? Cô
hỡi, biết không?
Chèo cô còn
khuấy, sóng lòng còn xao?
(Cô gái Kim Luông)
Còn sinh hoạt
của phố Hội xưa cũng được Nam Trân lột tả bằng những đường nét rất thực, hóm hỉnh,
đậm chất Quảng Nam:
Ai eng chè đậu
doáng?
Ai eng chè đậu
hảu không?
Ai eng hột dịt
lộn?
Bánh ít ngọt?
Xôi hông...?
Đến Faifao,
khách lạ
Ai nấy cũng dửng
dưng:
Quảng Nam đất
văn vật
Sao lắm bợm
"eng hung"?...
(Eng)
Cách mạng
Tháng Tám 1945 thành công. Từ một viên chức, một quan lại Nam triều, Nam Trân
nhanh chóng đến với Cách mạng, với kháng chiến và hoà mình vào cuộc trường
chinh vĩ đại của cả dân tộc, công tác tại Uỷ ban Kháng chiến Hành chính huyện Đại
Lộc, Uỷ ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Quảng Nam, rồi Chánh Văn phòng Uỷ ban
Kháng chiến hành chính Liên khu V.
Hoà bình lập lại
(1945), ông tập kết ra Bắc và trở lại nghề viết văn. Ông là Uỷ viên Ban Chấp
hành Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1959, Nam
Trân về công tác tại Viện Văn học, phụ trách Tiểu ban dịch tập thơ chữ Hán- Nhật
ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là nhiệm vụ không hề dễ chút nào.
Theo nhà thơ Hữu Thỉnh: Thơ Hồ Chí Minh có một phong cách riêng: đó là những
tinh hoa của thơ Đường - Tống (mà đặc sắc nhất là thể thơ tuyệt cú, ta hay gọi
là thơ tứ tuyệt), một thể ngắn, gợi nhiều hơn tả, do đó hàm súc và chứa đựng
triết lý, trí tuệ. Hồ Chí Minh đã dùng thể thơ này, nhưng lọc qua hồn mình: tâm
hồn một chiến sĩ giữa giông bão của thời đại biến động cách mạng. Lại là hoàn cảnh
ngồi tù bọn quân phiệt Trung Hoa. Hồ Chí Minh dùng thơ ấy để nói lên chí khí,
khí phách, khát vọng chiến đấu và khát vọng tự do; lòng nhân ái trữ tình đồng
thời trào lộng (kể cả tự trào). Do đó, phong cách thơ Hồ Chí Minh đa dạng, nhiều
màu sắc, có thể nói là đa phong cách. Ngoài việc dùng Hán ngữ cổ, Hồ Chí Minh sẵn
sàng linh hoạt dùng những từ ngữ mới (bạch thuật), từ địa phương Quảng Tây, Quảng
Đông; từ ngoại nhập. Hồ Chí Minh tỏ ra là người chủ động hoàn toàn trong khi sử
dụng loại thơ này.
Thế mà, bằng
trí tuệ uyên bác và sự cảm nhận sâu sắc về con người và cuộc đời của Bác Hồ
kính yêu, Nam Trân và các cộng sự đã thành công trong việc dịch tập thơ Nhật ký
trong tù ra tiếng Việt. Đầu năm 1960, tập thơ được in đúng vào dịp sinh nhật lần
thứ 70 của Bác, tiếp tục ghi thêm dấu ấn của Nam Trân trong lịch sử văn học hiện
đại của nước nhà. Nhiều nhà nghiên cứu văn học nhận định: Phải là bậc cao thủ mới
làm được như vậy. Có rất nhiều bản dịch đã chuyển dịch đầy đủ ra tiếng Việt cái
hồn, cái thần thái, cảm xúc, tư tưởng và nhịp điệu của nguyên tác một cách nhuần
nhị, hồn nhiên; thật sự là một sự quyện chặt văn hoá và hồn thơ. Mặt khác, những
bản dịch thơ Bác cũng là những bản dịch mẫu mực với những yêu cầu nghiêm ngặt
nhất của nghệ thuật dịch văn học.
Đại Lộc - Quảng
Nam, mảnh đất sinh ra Nam Trân- luôn tự hào về người con tài hoa của nước Việt.
Một ngôi trường trong huyện đã được vinh dự mang tên ông!
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét