“Nhật ký trong tù và lời
bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 3: Không có chữ dạy người
biết chữ
Hoàng Tuấn Công
Huế
đẹp, Huế thơ
Dịch thơ: nói dễ, làm khó!
“Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 1: Tan một nguyên tác thơ Hồ Chí Minh
“Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 2: Đạo văn để bình văn
“Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 3: Không có chữ dạy người biết chữ
“Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 4: Đạo đồ giả và sáng tạo nhầm
Ở
phần I và phần II bài viết, bạn đọc đã được biết đến chuyên gia số 1 về thơ
Bác, Lê Xuân Đức chữ tác đánh chữ tộ, không chỉ phá hỏng nguyên tác ”Nhật
ký trong tù”, lại còn “vào” Nhà xuất bản chính
trị quốc gia để “đạo” nội dung cuốn sách “Thơ chữ Hán
Hồ Chí Minh-chú thích-thư pháp” của GS Hoàng Tranh (Trung Quốc).
Chuyện động trời tới mức, chúng tôi tưởng đó là trò đùa. Nhưng hôm nay, khi đặt
bút viết đến phần “không biết chữ dạy người biết chữ” chúng tôi thấy Lê Xuân
Đức không hề đùa tí nào. Hay nói đúng hơn, Lê Xuân Đức đã ”Lộng giả
thành chân”, lên tiếng dạy bảo người khác để nghiễm nhiên trở
thành bậc thầy thiên hạ.
Vậy
Lê Xuân Đức dạy ai?
1.
Bài Cấm hút thuốc. Hai câu:
Yên
cấm thử gian hẩn lệ hại,
Nhĩ
yên kiểu nhập tha yên bao;
Nam
Trân dịch nghĩa:
Ở
đây lệnh cấm hút thuốc lá rất gắt gao,
Thuốc
của anh phải nộp vào túi thuốc của nó
Và
dịch thơ:
Hút
thuốc nơi này cấm
gắt gao,
Thuốc
anh nó tịch bỏ vào bao.
Tưởng
chẳng có gì đúng và hợp lý hơn nữa. Thế nhưng Lê Xuân Đức lại bức xúc: “Trước
đây, câu đầu bài thơ được dịch là “Hút thuốc nơi này cấm gắt gao”,
xin được lưu ý nguyên bản câu thơ này là “Yên cấm thử gian hẩn lệ hại”;
lệ hại có nghĩa là lợi hại, hẩn lệ hại là rất lợi hại. Như vậy, nghĩa và ý câu
thơ khác hoàn toàn với gắt gao. Rất lợi hại ngầm ý châm biếm cái lệnh cấm vô lý
ấy”.
Nhưng
Lê Xuân Đức biết một mà không biết hai. “Lệ hại” 厲害 trong
nguyên tác “Ngục trung nhật ký” dùng với nghĩa
là ”ghê gớm”, “khủng khiếp” chứ không phải
là lợi hại theo cái nghĩa ông phỏng đoán.
- Hán
Việt tự điển (Thiều Chửu) giải nghĩa: ”Lệ: Mạnh
dữ. Như tái tiếp tái lệ; lại đánh lại càng hăng dữ;
Ác, bạo ngược”.
-
Từ điển Hán Việt (Đào
Duy Anh): ”Lệ: Mài, Dữ tợn, Nghiêm khắc, ác”.
-
Từ điển Hán Việt (Phan
Văn Các chủ biên):
+ Lệ: nghiêm
ngặt; lệ hành thi hành nghiêm ngặt. 2, Nghiêm
túc, nghiêm khắc, nghiêm nghị.
+ Lệ
hại: ghê gớm/lợi
hại/kịch liệt/hung dữ.
Lưu
ý, chữ ”lợi hại” mà từ điển của Phan Văn Các dùng để miêu tả
từ “lệ hại”cũng được hiểu với nghĩa là ghê gớm, đáng sợ. Ví
dụ: vũ khí lợi hại (chứ không phải lợi hại là mối quan hệ so
sánh giữa cái lợi và cái hại như Lê Xuân Đức nghĩ). Vậy Nam Trân dịch: Yên
cấm thử gian hẩn lệ hại là “Hút thuốc nơi này cấm gắt
gao” có gì là ”khác hoàn toàn” với nguyên tác như Lê
Xuân Đức phản đối?
2.
Bài Đường đời hiểm trở
Câu:”Cao
sơn ngộ hổ chung vô dạng”, Nam Trân dịch: ”Núi cao gặp hổ mà vô sự” vừa
hay vừa bám sát nguyên tác. Thế nhưng Lê Xuân Đức lại không vừa ý: “Nếu
dịch vô dạng là vô sự thì chưa
chính xác. Trước tai họa gặp hổ mà nói là vô sự, gặp
nguy hiểm rồi đấy chứ. Có nhà nghiên cứu cho biết vô dạng là lời người xưa hỏi
thăm người gặp nguy hiểm nhưng được yên lành, không có chuyện gì xảy ra, nên vô
dạng có nghĩa là bình yên, yên ổn và đề nghị dịch là: Non cao gặp hổ mà yên ổn”.
Chẳng
có ”nhà nghiên cứu” nào đâu. Lê Xuân Đức hãy giở Hán
Việt tự điển của Thiều Chửu và Trần Văn Chánh ra mà xem nghĩa của
chữ dạng: Bệnh xoàng, Việc gì như
hỏi thăm ai thì nói vô dạng không việc gì chứ? 3. An nhiên vô
dạng: Bình yên không có việc gì.
Lê
Xuân Đức lại giở thêm Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh:
“Vô dạng: Không có tật bệnh,lo lắng gì-không có hề gì,
không nguy hiểm gì”.
Vô
sự tức không
có chuyện gì xảy. Mà không có chuyện gì xảy ra nghĩa là yên ổn, bình an chứ còn
gì nữa?
Riêng
chuyện Lê Xuân Đức thắc mắc: “Trước tai họa gặp hổ mà nói là vô sự, gặp
nguy hiểm rồi đấy chứ”. Xin giải thích thế này: Bác Hồ
viết “Núi cao gặp hổ mà vô sự, Đường phẳng gặp người bị tống lao” là
muốn tạo ra hiệu quả so sánh, đối lập giữa hổ và người (cụ thể là chính quyền
bắt giam Bác) để nói “chính sự hà khắc còn đáng sợ hơn hổ dữ” đó.
Vì
không hiểu ý tứ sâu xa trong câu thơ của Bác nên Lê Xuân Đức mới sửa lời thơ
dịch của Nam Trân: “Núi cao gặp hổ mà vô sự” thành: “Non
cao gặp hổ mà yên ổn” (!) Đọc lên thấy tênh hênh như vậy đó.
Nói
thêm: Chuyện Hà
chính mãnh ư hổ và câu nói của Khổng tử với học trò khi đi qua núi
Thái Sơn nhiều bạn đọc đã biết. Nhưng xin ghi lại để nếu tình cờ đọc được Lê
Xuân Đức khỏi thắc mắc, chê bai Nam Trân: Khổng Tử đi ngang qua núi Thái Sơn,
thấy một người đàn bà đang khóc lóc ở mộ rất bi thương. Phu tử tựa đòn
ngang xe, cúi xuống nghe thấy, sai Tử Lộ hỏi bà rằng: “Tiếng khóc của
bà dường như đang có nỗi đau buồn chất chứa?”. Người đàn bà mới
trả lời:”Đúng thế. Ngày trước cha chồng tôi chết vì hổ, sau đó chồng
tôi chết vì hổ, bây giờ con trai tôi cũng chết vì hổ”. Phu tử
mới hỏi: ”Tại sao bà lại không bỏ đi nơi khác?” Người đàn bà
đáp lại: ”Vì ở đây chính sự không hà khắc”. Phu tử mới
quay lại nói: ”Các trò hãy ghi nhớ điều đó. Chính sự hà khắc còn
tàn bạo hơn hổ vậy”. (theo sách Lễ Ký -HTC
dịch lại trên cơ sở bản dịch của Trần Văn Chánh)
3.
Bài ”Viết thay báo cáo cho bạn tù”:
Đồng
chu cộng tế nghĩa nan từ,
Thế
hữu biên tu báo cáo thư.
Phụng
thử đẳng nhân kim thủy học,
Đa
đa bác đắc cảm ân từ.
Nam
Trân dịch nghĩa:
Cùng
hội cùng thuyền việc nghĩa khó từ chối,
Viết
hộ báo cáo giúp bạn;
Phụng
thử đẳng nhân nay mới học,
Thế
mà đã nhận được bao lời cảm ơn.
Và
dịch thơ:
Cùng
hội cùng thuyền nên phải giúp,
Viết
thay báo cáo dám từ nan;
Chiểu
theo thừa lệnh nay vừa học,
Đã
được bao lời bạn cảm ơn.
Với
bản dịch này của Nam Trân, Lê Xuân Đức lên giọng kẻ cả: “Bản của Nam
Trân thanh thoát, giản dị như nguyên tác. Tuy nhiên, cần chuyển ngữ một số từ
sao cho sát nghĩa, đúng nghĩa. Ví như “nan từ” có nghĩa là khó từ
chối, nếu chuyển “nan từ” thành “từ nan” thì vẫn
chưa rõ nghĩa, thậm chí còn có thể gây hiểu lầm từ chối một việc khó khăn, “từ
nan” như bản dịch”.
Ở
đây, Lê Xuân Đức không hiểu, hoặc hiểu lầm là do trình độ hạn chế của mình,
phải đâu tại cụ Nam Trân dịch thơ? Được biết Lê Xuân Đức rất am tường lịch sử
và văn học Việt Nam, vậy xin ông bớt cao ngạo một chút để đọc lại hai câu thơ
đánh giặc Đèo Cát Hãn của Lê Lợi trên bia cổ Hào Tráng, khắc trên vách đá sông
Đà, (nay đã được đem về Sở Văn hóa Thể thao Du lịch Hòa Bình):
- Kỳ
khu hiểm lộ bất từ nan,
Lão
ngã do tồn thiết thạch can.
Nghĩa
là:
Đường
gồ ghề hiểm trở, chẳng ngại khó khăn,
Ta
tuy già mà gan còn vững như sắt đá.
Đọc
lại rồi, chắc Lê Xuân Đức hiểu tại sao Lê Lợi cũng dùng hai chữ “từ nan” (giống
như cụ Nam Trân) mà mọi người vẫn không hiểu lầm là Lê Lợi đã “từ chối
một việc khó khăn”? Bởi trước hai chữ “từ nan” có
chữ ”bất”. “Bất từ nan” là không ngại khó
khăn. Với Nam Trân, đã có chữ “dám” đứng trước hai chữ “từ nan”, thành: “dám
từ nan”, là không dám từ chối khó khăn: “Viết thay
báo cáo dám từ nan” (Chữ “dám” ở đây nghĩa là đâu dám, không
dám. Việt Nam tự điển: “Dám: bạo,
không sợ. Dẫu mòn bia đá dám sai tấc vàng (Kiều).
Vậy,
Hồ Chí Minh dùng “nan từ” là khó có thể từ chối, Nam Trân dịch là “dám
từ nan” nghĩa là không dám từ chối, thì có đâu là
nghịch nghĩa, có gì mà hiểu lầm?
Như
thế, cái “vốn Hán học phong phú, lại am hiểu lịch sử và văn học Việt
Nam, lịch sử văn học Trung Hoa đến độ sâu sắc” (chữ của Nhà thơ
Hữu Thỉnh khen tặng LXĐ) cộng bốn mươi năm nghiên cứu thơ Bác của
Lê Xuân Đức đang phô bày một cách rất chân thực qua từng câu, từng chữ trong
sách “Nhật ký trong tù và lời bình”.
Cũng
trong bài “Viết hộ báo cáo cho người bạn tù”, câu
“Phụng thử, đẳng nhân kim thủy học”, Nam Trân dịch: Chiểu
theo, thừa lệnh nay vừa học. Lê Xuân Đức lại không bằng lòng và tiếp
tục “truy” Nam Trân: ‘Cũng như những từ “phụng thử”, “đẳng
nhân” là các từ thường dùng trong các bản tấu biểu xưa của Trung Quốc,
nay các công văn giấy tờ của chính quyền Trung Hoa dân quốc cũng có dùng (Lưu
ý bạn đọc, đoạn này Lê Xuân Đức “chôm” của GS Hoàng Tranh. Nguyên văn: “Phụng
thử, đẳng nhân” là các từ ngữ thường dùng trong các bản tấu biểu xưa của
Trung Quốc” - Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích-thư
pháp tr.191- LXĐ chỉ bỏ đi một chữ “ngữ” trong “từ
ngữ” mà thôi – HTC chú thích). Khi Bác viết hộ đơn từ cho những tù
nhân, Bác đã sử dụng các từ ấy mà Bác cho là nay mới học được, kim
thủy học. Trong văn bản dịch thơ những từ “phụng thử
đẳng nhân” được dịch là chiểu theo, thừa lệnh thì
chưa sát nghĩa. Song nếu bản dịch để nguyên không chuyển nghĩa thì sẽ có bạn
đọc không hiểu nghĩa câu thơ”.
Như
thế, Lê Xuân Đức chê cho có chê. Mà chê lại không đúng tí nào:
-
Ba từ “kim thủy học” nghĩa là nay mới (bắt đầu) học (kim
= nay; thủy = bắt đầu). Ý Bác nói những từ ấy vốn xa lạ với Bác, Bác không dùng
đến (vì khi còn tự do, có dùng làm gì đâu?). Nay vì cảnh ngộ, bất đắc dĩ mới
phải học cách dùng. Thế nhưng “kim thủy học” (nay mới học) Lê
Xuân Đức lại dịch là “nay mới học được”. Thưa
ông, “nay mới học” và “nay mới học được” ý
nghĩa hoàn toàn khác nhau. Bởi “nay mới học được” của
Lê Xuân Đức có nghĩa: điều cần thiết ấy đáng ra phải biết, phải học được từ lâu
rồi mà lại chẳng học trước đi, hoặc chẳng ai dạy cho mà học (!).
-
Lê Xuân Đức chê Nam Trân dịch: “chiểu theo, thừa lệnh thì chưa sát
nghĩa”, nhưng ngay sau đó lại thừa nhận: “Song nếu bản dịch để nguyên
không chuyển nghĩa thì sẽ có bạn đọc không hiểu nghĩa câu thơ”. Thế
là Lê Xuân Đức cũng chẳng biết làm thế nào hơn. Ở đây, Lê Xuân Đức còn thể hiện
một điều ấu trĩ, máy móc nữa: các từ “phụng thử, đẳng nhân” Hồ Chí
Minh đưa ra chỉ có ý muốn nói đây là những từ cổ, bản thân chưa từng dùng trong
các văn bản giấy tờ, nhưng vì cảnh ngộ bị bắt giam, lại gặp bạn tù không biết
chữ, không viết được báo cáo, mình là người có chữ chẳng lẽ lại chối từ. Bác đã
làm một việc lần đầu tiên làm, thế nhưng: “Đa đa bác đắc cảm ân từ” (Đã được
bao lời bạn cảm ơn - Nam Trân dịch). Cho nên “phụng thử, đẳng nhân” đâu có
quan trọng đến mức khi dịch thơ phải thật “sát nghĩa” như yêu
cầu của Lê Xuân Đức? Mà Nam Trân dịch như vậy Lê Xuân Đức còn đòi “sát” thế nào
nữa đây?
4.
Bài Quán trọ
Chiếu
lệ sơ lai chư nạn hữu,
Tất
tu thụy tại xí khanh biên;
Giá
như nhĩ tưởng hảo hảo thụy,
Nhĩ
yếu đa hoa kỷ khối tiền
Nam
Trân dịch nghĩa:
Theo
lệ các bạn tù mới đến,
Ắt
phải ngủ cạnh hố xí;
Nếu
anh muốn ngủ ngon giấc,
Anh
phải tốn thêm mấy đồng bạc.
Và
dịch thơ:
Lệ
thường tù mới đến,
Phải
ngồi cạnh cầu tiêu;
Muốn
ngủ cho ngon giấc,
Anh
phải trả tiền nhiều.
Lê
Xuân Đức tiếp tục đem trình độ “Trung văn” lớp đồng ấu ra dạy Nam Trân tiên
sinh: “Ở câu thơ thứ ba cần lưu ý đến hai từ hảo hảo.
Tiếng Trung Quốc nói hảo có nghĩa là tốt, hảo hảo là
tốt tốt, tương đối tốt, kha khá một chút, nếu dịch hảo hảo
thụy là ngủ ngon giấc thì chưa sát nghĩa lắm, trong văn cảnh “Giả
như nhĩ tưởng hảo hảo thụy”, hảo hảo thụy có nghĩa là
ngủ yên một chút, hoặc ngủ kha khá một chút mà thôi”.
Mời
Lê Xuân Đức xem “Hán điển tuyển tự thích nghĩa” của
Trung Quốc: (Hảo hảo: hình dung hẩn hảo, hoàn hảo. Nghĩa
là: Hảo hảo: hình dung việc gì rất tốt, hoàn hảo).
Như
thế, câu “Giá như nhĩ tưởng hảo hảo thụy”, cụ Nam Trân dịch nghĩa: Nếu
anh muốn ngủ ngon giấc, dịch thơ: Muốn ngủ cho ngon giấc, có
gì là ”không sát nghĩa lắm”? Mà dẫu có “chưa sát nghĩa lắm”, cũng
đâu có “tày đình” như tội phá hỏng nguyên tác thơ Hồ Chí Minh, lại đạo văn để
bình văn như Lê Xuân Đức? Đây là dịch thơ kia mà? Cụ Nam Trân đâu có dịch sai,
hoặc dịch làm mất đi ý nghĩa quan trọng của nguyên tác? Vả lại cái ý
tưởng “hảo hảo thụy có nghĩa là ngủ yên một chút, hoặc ngủ kha khá một
chút” Lê Xuân Đức đưa ra để chê Nam Trân (giả sử có đúng và
hay) cũng đâu phải là phát hiện của ông? Các vị Nam Sơn, Nguyễn Thế
Nữu đã từng dịch (trích lần lượt): “Ví anh ngủ yên đôi chút”
và: “Giá như anh muốn ngủ khá chút ít” hãy còn rành rành trong “Nhật
ký trong tù và lời bình” do chính Lê Xuân Đức chép lại đấy
thôi. Sao lại có kiểu lập lờ đánh lận con đen như vậy?
5. Bài ”Mới đến nhà lao Thiên
Bao”
Lê
Xuân Đức “chấm điểm” cho mọi người, và tiếp tục “phê” Nam Trân: “Bài
thơ Sơ đáo Thiên Bảo ngục” là một trong những bài thơ có
nhiều bản dịch, bản dịch nào cũng khá trôi chảy, giàu chất thơ. Tuy nhiên, có
bản dịch còn những hạt sạn, tuy giữ được âm điệu thơ nhưng lại
không diễn dịch được đúng cái thần của nguyên tác. Ví như hai câu:
Triệt hạ hựu vô an thụy xứ,
(đúng
ra là triệt dạ, LXĐ phiên thành triệt hạ – HTC)
Xí
khanh thượng tọa đãi triêu lai.
Mà
dịch là:
Lại
khổ thâu đêm không chỗ ngủ,
Ngồi
trên hố xí đợi ngày mai.
Thì
quả là không ổn chút nào, bởi nghĩa trong nguyên tác là:
Suốt
đêm lại không có chỗ ngủ yên,
Ngồi
trên hố xí đợi trời sáng.
Hiểu
hai chữ lại khổ mang ý nghĩa ca thán thì càng không chính xác.
Như ta biết, dù bị hành hạ, dù khổ cực đến mấy, có bao giờ Bác than thở đâu”.
Đoạn
này, Lê Xuân Đức nên đọc lại hai câu đầu của bài thơ:
Nhật
hành ngũ thập tam công lý,
Thấp
tận y quan, phá tận hài;
(Cả
ngày đi bộ năm mươi ba cây số,
Ướt
hết áo mũ, rách cả dép)
Như
thế, ý thơ rất rõ: Ban ngày đã khổ sở, vất vả mệt nhọc,
những tưởng đêm về được nghỉ ngơi, nhưng “Suốt đêm lại không
có chỗ ngủ, Phải ngồi trên hố xí đợi trời sáng”. Chính Lê Xuân
Đức đã dẫn: “Trần Dân Tiên kể: Ban đêm, cụ Hồ phải ngồi trên cầu xí
ngay ở trong phòng giam. Nhưng cụ vẫn không được yên ổn. Lâu lâu lại phải đứng
dậy nhường chỗ cho một người đi ỉa đêm”. Như thế, ngày đã khổ,
đêm lại càng khổ! Hai chữ “lại khổ” Nam Trân
dịch có phải là “than thở” hay không? Và “than thở” với
ý lên án chế độ ngục tù, hay than thân trách phận phụ thuộc vào trình độ cảm
nhận của Lê Xuân Đức. Không nên đổ lỗi cho câu thơ Nam Trân dịch. Bởi “Thịt
da ai cũng là người”. Tình cảnh cùng cực chất chồng của Bác như
thế, Nam Trân dịch là “Lại khổ thâu đêm không chỗ ngủ, Ngồi
trên hố xí đợi ngày mai” mà còn chê là “hạt sạn” thì Lê
Xuân Đức còn “muốn gì” ở đây nữa cho không có “sạn”?
Có
lẽ phải phong cho Lê Xuân Đức là “Thánh chê” mới phải?!
6.
Bài Tức cảnh
Hai
câu:
Tổ
quốc chung niên vô tín tức,
Cố
hương mỗi nhật vọng hồi âm.
Nam
Trân dịch thơ:
Năm
tròn cố quốc tăm hơi vắng,
Tin
tức bên nhà bữa bữa trông.
Lê
Xuân Đức tiếp tục cao giọng: “rất đáng tiếc từ Tổ quốc được
chuyển ngữ là cố quốc. Tuy cố quốc cũng là
nói Tổ quốc, nhưng hai chữ Tổ quốc trong bài thơ
có một ý nghĩa đặc biệt. Trong tập “Ngục trung nhật ký”, khi
nói về Tổ quốc, Bác đã dùng: Việt địa (đất Việt), Nam
thiên (trời Nam), cố hương, non sông…chỉ duy nhất một lần
trong bài thơ Tức cảnh này, Bác mới dùng hai chữ Tổ quốc.
Đây chính là nhãn tự của bài thơ, thần thái của bài thơ. Rất mong có bản dịch
giữ nguyên được hai chữ Tổ quốc”.
Cái
kiểu “thẩm bình” đếm đếm, xem xem mấy lần Bác dùng từ Việt địa, Nam
thiên, Tổ quốc; cố hương, non sông (mà “Ngục trung nhật ký” là
thơ chữ Hán, Bác dùng từ “non sông” bao giờ vậy thưa ông Lê Xuân
Đức?) là kiểu dụng công của học trò. Đâu phải phát hiện gì đáng kể?
Hơn nữa Lê Xuân Đức tiếc hai từ “Tổ quốc” và coi đây
là “nhãn tự” của bài thơ chỉ với lý do là nó xuất hiện một lần
duy nhất trong ”Nhật ký trong tù” là sáo. Vậy, bây giờ bình
đến bài “Bệnh trọng” ông lại nói, từ “Việt địa” cũng xuất hiện một
lần duy nhất rồi tán tụng chữ đó là “nhãn tự” hay sao? Lê Xuân Đức hãy cùng
chúng tôi đọc lại thêm lần nữa:
Tổ
quốc chung niên vô tín tức,
Cố
hương mỗi nhật vọng hồi âm.
Nguyên
tác: “Tổ quốc” (câu trên) đối với “cố hương” (câu
dưới). Từ “cố hương” ở đây gợi nỗi nhớ nhung, xa cách
vời vợi của Bác – một người tha hương, lại đang lâm cảnh ngộ lao tù chưa biết
khi nào được ra. Khi dịch thơ, Nam Trân đã giữ lại chữ “cố” của tác giả ”Ngục
trung nhật ký” bằng cách chuyển “cố hương” thành “cố
quốc”: “Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng, Tin tức bên nhà bữa bữa trông” là
rất thơ, rất đúng, sao Lê Xuân Đức còn phải phàn nàn, chê bai?
7.
Bài Bạn tù họ Mạc
Hai
câu:
“Xa
đại pháo” tài chân vĩ đại,
Tại
tù nhưng tưởng ngật nhân sâm.
Lê
Xuân Đức dạy: “Ở đây cần lưu ý đến chữ tài. Trước đây có mấy bản
dịch thơ đã dịch với nghĩa là tài giỏi. Từ Hán, tài trong văn cảnh này có nghĩa
là mới, một tật xấu: một tấc đến trời, thì không thể cho là tài giỏi được”.
Chẳng
có ai dốt tới mức, dịch chữ “tài” là mới thành tài
giỏi như Lê Xuân Đức nghĩ. Mà ai dịch như vậy, sao ông không trích
dẫn? (Ngoài chê Nam Trân những điều không đáng chê, Lê Xuân Đức còn tạo ra
những cái sai giả tưởng, để chính ông quay lại giảng giải, phê phán, phân tích,
đính chính vẻ rất uyên thâm. Với cách này Lê Xuân Đức đã lừa được bao người).
Lê Xuân Đức nên nhớ, “Nhật ký trong tù” không viết bằng
văn ngôn (cổ văn) mà là văn bạch thoại. Chữ nghĩa của Hồ Chí Minh lại trong
sáng, giản dị nên dẫu có “ý tại ngôn ngoại” thường vẫn rất dễ hiểu. Ví như
câu: “Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan” trong
bài Đi đường, cụ Nam Trân đã dịch: Đi đường mới biết
gian lao từ giữa thế kỷ trước rồi. Lại nữa, Lê Xuân Đức cho rằng “một
tật xấu: một tấc đến trời, thì không thể cho là tài giỏi được”. Nhưng
Lê Xuân Đức hãy yên tâm. Bốc phét, khoe khoang khoác lác vẫn được người ta gọi
là “tài” là “giỏi” như thường. Chẳng hạn, người ta thường vẫn nói: “Ông
(lão, thằng) ấy chỉ có tài (giỏi) bốc phét thôi”. Thế nên, Lê Xuân Đức đừng
ngạc nhiên khi có người khác dịch hoặc nói đến chuyện “tài giỏi” trong
câu “Xa đại pháo tài chân vĩ đại”. (Thực ra câu “Xa đại
pháo tài chân vĩ đại” Khương Hữu Dụng đã dịch: Ba hoa khoác
lác thật là tài, và đã được chính LXĐ in vào sách của ông). Cũng như
cái tài “xa đại pháo”, tài “nổ” như pháo ở
đây đã được tác giả “Nhật ký trong tù” mỉa mai
là “chân vĩ đại” đó thôi! Thậm chí trong lịch sử văn học có
nhân vật vừa phét, vừa láo, dám ngang nhiên “đá bèo” giữa ban ngày còn được tôn
là “trạng” nữa kia mà!
8.
Bài Đường đời khó khăn
Câu:
“Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân” (Định đến Trung Hoa để gặp người
quan trọng) Lê Xuân Đức lại chê: “Nam Trân dịch thơ: “Tìm đến
Trung Hoa để hội đàm” thì xa ý. Sau này Trần Đắc Thọ dịch là: “Định
gặp yếu nhân của đất Hoa” tuy sát ý hơn nhưng lại yếu chất thơ”. Dịch
thơ là như vậy đó. Được cái nọ lại mất cái kia là chuyện thường. Phần Lê Xuân
Đức, ông có cách dịch để được cả hai sao không công bố? Nếu dịch
dở, dịch sai, độc giả có quyền chê. Nhưng chê theo cách dạy bảo “dễ ợt” của Lê
Xuân Đức mới thật trớ trêu!
Lê
Xuân Đức không hiểu thế nào là thơ và dịch thơ thì phải thế nào nên loạn bàn
lung tung cả. Thế nhưng, tại sao Lê Xuân Đức lại cứ nhắm vào Nam Trân và Viện
văn học mà “xô”, mà “dìm” nhỉ? Nam Trân tiên sinh (1907-1967) là bậc
túc nho, người chủ trì dịch và có nhiều bản dịch thơ “Nhật ký trong
tù” hay nhất, đạt nhất cơ mà? Có lẽ Lê Xuân Đức đã từng và vẫn
muốn dựa bóng, thậm chí dẫm đạp lên lưng những người khổng lồ để được cao lớn
hơn một cách mau chóng, bất chấp tất cả!
Theo
chúng tôi, để hiểu được thơ Bác và “trao đổi” được với cụ Nam Trân, Lê Xuân Đức
ít nhất cũng cần có thêm 40 năm nữa để trau dồi Hán học và viết lại cái tên Đức
cho đúng nghĩa. Lúc đó, nếu Dịch giả – Nhà thơ Nam Trân rộng lòng cho phép, Lê
Xuân Đức có thể trực tiếp gặp Nam Trân tiên sinh ở “bển” mà “phê” mà “thẩm” mà “bình” cũng
chưa muộn! Sao phải vội vàng, cẩu thả, cho ra đời cuốn sách đầy rẫy những sai
sót như “Nhật ký trong tù và lời bình”?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét