“Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 4: Đạo đồ giả và sáng tạo nhầm
Hoàng Tuấn Công
Dịch thơ: nói dễ, làm khó!
“Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 1: Tan một nguyên tác thơ Hồ Chí Minh
“Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 2: Đạo văn để bình văn
“Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 3: Không có chữ dạy người biết chữ
“Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 4: Đạo đồ giả và sáng tạo nhầm
Chuyện
“đạo văn” của Lê Xuân Đức đã quá rõ. Nhưng, cái hay, cái đúng Lê Xuân Đức đạo
đã đành. Đằng này, những sai sót nhầm lẫn, thiếu chính xác của người ta Lê Xuân
Đức cũng cứ “xài” liền liền.
1.
Bài Bạn tù họ Mạc
Hai
câu:
“Xa
đại pháo” tài chân vĩ đại,
Tại
tù nhưng tưởng ngật nhân sâm”.
Lê
Xuân Đức giảng giải: “Xa đại pháo là một phương ngữ
ở Quảng Đông (chứ không phải như chú thích của Viện văn học trong
bản dịch năm 1983) có nghĩa là một tấc lên trời, huênh hoang khoác lác. Phương
ngữ này cùng một nghĩa với thành ngữ ở Quảng Đông “Đại suy đại
lôi” nghĩa là bốc phét quá chừng, quá mức”.
Xin
trao đổi với Lê Xuân Đức mấy điểm sau đây:
a. Cái ý “Xa đại pháo là phương
ngữ Quảng Đông” chẳng qua Lê Xuân Đức “chôm” của GS Hoàng Tranh
trong “Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh – chú thích – thư pháp” (chú
thích tr.128). GS Hoàng Tranh viết: “phương ngôn”, ông
đổi thành”phương ngữ”. Mặt khác, Lê Xuân Đức nói “phương
ngữ này cùng một nghĩa với thành ngữ ở Quảng Đông” là chẳng hiểu hai
khái niệm phương ngữ và thành ngữ nó giống nhau, khác nhau ra sao. Hơn
nữa, Viện văn học chú thích sai như thế nào, sao ông không nói
rõ mà lại lập lờ như vậy? Và cái ý “Xa đại pháo” nghĩa
là “huênh hoang, khoác lác” đã được Nam Trân hiểu đúng và dịch
là ”một tấc lên mây” rồi, Lê Xuân Đức còn “phát hiện” làm
gì nữa? (Một tấc lên mây” ghê gớm thật, Ngồi tù mà vẫn ước nhân
sâm – Nam Trân dịch).
b. Câu “Đại suy đại
lôi” không biết Lê Xuân Đức chép ở đâu, nhưng đã chép sai. Vì viết
đúng là “Đại xuy đại lôi” (xuy chữ X) chứ không
phải “Đại suy đại lôi” (suy chữ S). Chữ “xuy” này
không có nghĩa là “suy” như Lê Xuân Đức “suy diễn” mà có nghĩa là thổi (xuy trong xuy
địch -thổi sáo: Mục đồng xuy địch dẫn ngưu quy –
Trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay – Bài Hoàng hôn – “Ngục trung
nhật ký” - Nam Trân dịch).
Câu “Đại xuy đại lôi” (xuy =
thổi; lôi = đánh) có nghĩa là cùng lúc tấu các loại nhạc cụ lên, vốn
là một đoạn trong lời thoại vở kịch Tứ đại vương ca vũ Lệ Xuân
đường” (四 Bốn đại vương ca múa ở nhà Lệ
Xuân), còn gọi là vở Lệ Xuân đường của nhà viết
kịch Vương Thực Phủ đời Nguyên: “Ban cho anh hoàng kim ngàn lượng,
rượu thơm trăm bình, tại Lệ Xuân đường cùng tấu tất cả nhạc khí lên (đại xuy
đại lôi) tổ chức tiệc vui thật linh đình”.
Trong
lời thoại trên: ngàn lạng vàng, trăm bình rượu thơm, tấu tất cả các
nhạc khí lên, đều mang vẻ rất khoa trương. Và “đại xuy, đại lôi” được
“lẩy” ra để dùng như một thành ngữ chỉ sự khoe khoang quá mức. Như
vậy, câu thành ngữ “Đại xuy đại lôi” vốn là một “tích” trong vở
kịch, đâu phải là “một thành ngữ ở Quảng Đông” như Lê Xuân Đức
nói.
Nói
thêm: Lê Xuân Đức
từng có bài viết “Đi nhiều để hiểu sâu hơn” trên báo Công
an nhân dân và báo Thanh Hóa. Ông viết: “Đặc
biệt, cùng với việc tìm hiểu một số phương ngữ, thành ngữ Quảng Tây (Trung
Quốc), một số điển cố lịch sử và thơ ca cổ Trung Quốc mà Bác sử dụng và tập cổ
trong “Nhật ký trong tù”, tôi đã có hai
chuyến điền dã ở Quảng Tây, là nơi Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm
trước đây. Chuyến thứ nhất, lần theo con đường tù đày của Bác qua 13 huyện
tỉnh Quảng Tây: Tĩnh Tây, Thiên Bảo (nay là Đức Bảo), Điền Đông, Quả Đức, Long
An, Đồng Chính (nay là Phù Tuy), Ung Ninh, Nam Ninh, Vũ Minh, Tân Dương, Lai
Tân (nay là khu Hưng Tân, trực thuộc thành phố Lai Tân), Liễu Châu, Quế Lâm và
một chuyến trở lại một số địa điểm cần thiết để xác định và hiểu rõ hơn những
điều cần tìm hiểu”.
Theo
đó, Lê Xuân Đức từng sang Quảng Tây – Trung Quốc “điền dã”, và đã đi tới hai
lần. Lịch trình đi của Lê Xuân Đức giống hệt cách đặt câu trong “chú thích” của
GS Hoàng Tranh. Và rốt cuộc ông đã “cầm nhầm” sách “Thơ chữ Hán Hồ Chí
Minh – chú thích – thư pháp” của GS Hoàng Tranh rồi cứ ngỡ đây là sổ tay
“điền dã” của mình! Riêng câu “Đại suy đại lôi”
hiện chúng tôi chưa biết Lê Xuân Đức đã “điền dã” được ở trong sách của ai,
nhưng vì không hiểu cặn kẽ cụ thể nó là gì nên đã chép sai và gán cho nó cái
xuất xứ “thành ngữ ở Quảng Đông” vậy đó.
2.
Bài Bị hạn chế
Một
hữu tự do chân thống khổ,
Xuất
cung dã bị nhân
chế tài;
Khai
lung chi thời đỗ bất thống,
Đỗ
thống chi thời lung bất khai.
Nam
Trân dịch:
Đau
khổ chi bằng mất tự do,
Đến
buồn đi ỉa cũng không cho;
Cửa
tù khi mở, không đau bụng,
Đau
bụng thì không mở cửa tù.
Bài
này GS Hoàng Tranh chú thích: “Hai chữ xuất cung, tiếng Quảng Đông có
nghĩa là đi ngoài”. Thế là Lê Xuân Đức bám ngay vào đây để
“bình”: “Những từ Hán-Việt nôm na mách qué, theo quan niệm
truyền thống, đặc biệt thơ cổ là tối kỵ, uế tạp, nhưng với Bác, giản dị đã trở
thành bản lĩnh…”. Thế nhưng, Lê Xuân Đức chỉ quen nói theo, “chôm đồ”
của GS Hoàng Tranh mà không tự tìm hiểu xem nó là đồ thật hay đồ giả. Tại
sao “xuất cung” (chữ cung trong cung
kính) lại được đem dùng để nói một việc chẳng ăn nhập gì là “đi
ị”? Liệu có đúng đây là ”tiếng Quảng Đông” theo
kiểu ”nôm na mách qué” không? Lê Xuân Đức có điều
kiện sang Trung Quốc “điền dã” sao không tra cứu từ
điển Tàu cẩn thận rồi hẵng viết, thay vì phỏng đoán, “chôm” ý tưởng sai của
người khác?
Từ “xuất
cung” vốn sinh ra ở chốn trường thi (từ đời Nguyên bên Tàu). Vào
trường thi, sĩ tử làm bài kéo dài tới cả ngày trời nên phải đem theo thức ăn,
nước uống tự phục vụ tại chỗ. Riêng việc đại tiện, tiểu tiện, để tránh thí sinh
tự ý đi lại, rời vị trí ngồi, gian lận tài liệu, trường thi quy định phải “xuất
cung, nhập kính”. Tức ra, vào đều phải có phép
tắc nghiêm chỉnh. Muốn đi đái, đi ỉa, trước tiên sĩ tử phải xin phép và lĩnh
tấm thẻ có chữ “xuất cung” mới được đi nhà xí. Do vậy, người
ta gọi đi nhà xí là “xuất cung”. Lại gọi đại tiện
là “xuất đại cung”, tiểu tiện là “xuất tiểu
cung”. (Nguyên đại khởi: Khoa cử khảo trường trung thiết hữu: xuất
cung, nhập kính bài, dĩ phòng sĩ tử đàn ly tọa vị, sĩ tử nhập xí tu tiên lĩnh
thử bài, nhân xưng nhập xí vi xuất cung. Tịnh vị đại tiện vi xuất đại cung,
tiểu tiện vị xuất tiểu cung – Nguyên văn chữ Hán trong từ điển Tàu, HTC
phiên âm,dịch nghĩa).
Như
thế, “xuất cung” không phải là “tiếng Quảng Đông”.
Và dĩ nhiên Bác Hồ cũng không hề “nôm na, mách qué” như Lê
Xuân Đức nghĩ. Bác nói chữ đó!
Nói
thêm: Trong
nguyên tác chữ Hán “Tây du ký” của Ngô Thừa Ân chương 29, đoạn
nói Trư Bát Giới khoe khoang, mắng nhiếc Huỳnh Bào rồi cùng Sa Tăng nhảy vào
giao chiến. Đánh tới 90 hiệp, Bát Giới đã mệt lử, Sa Tăng cũng hết hơi mà không
thắng nổi. Có nguy cơ bại trận, Bát Giới mới lừa Sa Tăng: “Hiền đệ cố
sức cầm cự tiếp, đợi ta “đi ngoài” cái đã, xong sẽ
quay lại ngay”. (Sa Tăng! Nhĩ thả thượng tiền lai, dữ tha đấu
trước, Lão Trư xuất cung lai. Sa Tăng tin lời Bát
Giới, đem hết sức ra đánh. Chẳng ngờ Bát Giới chạy xa, tìm chỗ mát nằm ngáy khò
khò. Còn Sa Tăng đợi Bát Giới hết hơi, một mình đánh không lại, bị Huỳnh Bào
bắt sống trói gô lại.
Việt
Nam cũng có từ “đi ngoài” để chỉ “đại tiện”. Rất
có thể từ này cũng xuất phát từ cách nói “xin ra ngoài” của sĩ
tử trường thi xưa. Chúng tôi còn nhớ hồi nhỏ đi học, ban đầu đứa nào đứa nấy cứ
bô bô: “Thưa cô, cho em xin ra ngoài đi ỉa”. Thầy cô
mới dạy cho phép lịch sự: “Từ nay, em nào “muốn vậy”, phải nói rằng “Thưa
cô, cho em ra ngoài có việc” nhớ không?”
Đáng
chú ý, việc “thó” phải “đồ giả” của Lê Xuân Đức không chỉ dừng lại ở một vài
trường hợp.
3.Bài
“Ghẻ lở”
Hai
câu:
Mãn
thân hồng, lục như xuyên cẩm,
Thành
nhật lao tao tự cổ cầm;
(Khắp
người xanh đỏ như hoa gấm,
Suốt
ngày gãi sột soạt tựa gảy đàn)
-
GS Hoàng Tranh (sách
đã dẫn tr.193) chú thích:
“Hai
chữ “thành nhật” (成日) là tiếng địa phương của vùng Quảng Đông.
Những năm 20 và 30 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã từng hoạt động cách mạng ở vùng
Quảng Châu và Hồng Kông tiếp xúc với tiếng Quảng Đông, nên trong các câu thơ
thường xuất hiện một số từ ngữ Quảng Đông. Ví dụ: xuyên cẩm (穿錦) –
mặc áo gấm, “cổ cầm”
(鼓琴)-gảy đàn, để so sánh với cái ghẻ lở trên
thân thể người bị giam trong tù”.
-
Tài liệu “điền dã” và “lời bình” của Lê Xuân Đức:
“Hai
chữ “thành nhật” là tiếng địa phương vùng Quảng Đông, Bác đã từng
hoạt động cách mạng ở vùng Quảng Đông những năm 20 và 30 của thế kỷ XX, tiếp
xúc nhiều và dùng tiếng Quảng Đông, nên trong các câu thơ thường xuất hiện một
số từ ngữ Quảng Đông như trong bài nà: Thành nhật: suốt ngày, xuyên cẩm: mặc áo
gấm, cổ cầm: gảy đàn, là cách nói hình ảnh chỉ cái ghẻ và gãi ghẻ trên thân thể
người bị giam trong tù”.
Như
vậy, Lê Xuân Đức tiếp tục “đạo” chú thích của GS Hoàng Tranh làm “tài liệu điền
dã” của mình. Nhưng GS Hoàng Tranh là người Lưỡng Quảng (cụ thể là Quảng Châu –
Quảng Đông – Trung Quốc). Có lẽ vì yêu tiếng mẹ đẻ của mình nên nhiều từ, ngữ
GS Hoàng Tranh cho rằng nó là phương ngữ độc đáo của riêng vùng Quảng Đông. Thế
nhưng, Lê Xuân Đức là người Việt Nam, lại đang nghiên cứu về một tác phẩm, tuy
viết bằng chữ Hán nhưng tác giả của nó cũng là một người Việt Nam: Nhà thơ –
Lãnh tụ Hồ Chí Minh, sao lại nói theo, lại “đạo” nguyên xi cái ý chủ quan của
một người Quảng Đông – Trung Quốc?
-
Từ “thành nhật” từ điển Tàu có mở ngoặc là phương (方) tức phương
ngữ. Tuy nhiên, các từ “xuyên cẩm”, “cổ cầm” không
được xếp vào phương ngữ, càng không phải là phương ngữ của Quảng Đông.
1.
Từ “xuyên cẩm”: Tiếng
phổ thông Trung Quốc, “xuyên” được dùng để tạo nên các kết hợp từ như: mặc
quần áo, đi tất, đi găng tay, đi dép,v.v.
-Từ
điển Hán Việt (Phan
Văn Các chủ biên): “Xuyên: Mặc/đi giày, tất, găng tay. Xuyên hài 穿鞋 (đi
dép); xuyên y phục穿衣服 (mặc quần áo)
-
Từ điển Hán Việt - Đào
Duy Anh: Xuyên hiếu 穿孝 (mặc áo tang, để tang). Xuyên
y 穿衣-mặc
áo vào mình.
-
Tự điển Hán-Việt (Trần
Văn Chánh): Xuyên: Mặc, mang, đi: 穿衣服 Mặc quần áo; 穿鞋 Đi
giày.
-
Từ điển Việt Hán (Đinh
Gia Khánh hiệu đính): “Mặc: (衣) mặc quần áo (xuyên y phục).
-
Tục ngữ Trung Quốc: Xuyên
y, đới mạo, các nhân sở hiếu (Mặc áo đội mũ, mỗi người một sở
thích); Xuyên hắc y, bão hắc trụ (Mặc áo đen, ôm
cột đen). Ngoài từ “xuyên” để chỉ mặc quần áo, đi
dày, đi tất… không thấy từ điển Tàu và từ điển Hán – Việt; Việt – Hán của
ta ghi nhận từ nào khác đồng nghĩa.
Như
vậy, Hồ Chí Minh dùng “xuyên cẩm” 穿 錦 (xuyên = mặc; cẩm = áo gấm thêu dệt nhiều
màu), với nghĩa là mặc áo gấm, để chỉ màu da bị ghẻ lở, lý do gì để
xếp vào “phương ngữ Quảng Đông”?
2.
Từ “cổ cầm”: Đây
cũng là từ phổ thông, bởi đơn giản “cổ” nghĩa là đánh, “cầm”
là đàn cầm.
-
Từ điển Hán Việt (Đào
Duy Anh) 鼓琴 ”Cổ cầm: đánh
đàn cầm”.
-
Hán Việt tự điển (Thiều
Chửu): Cổ 鼓 ① Cái trống.② Ðánh
trống. ③ Gảy, khua. ④ Quạt
lên, cổ động. ⑤ Trống canh.
-
Từ điển Hán Việt (Trần
Văn Chánh): Cổ 鼓 ① Trống: 銅鼓 Trống
đồng; 更鼓 Trống canh; ② (văn)
Đánh trống; ③ Đánh, gảy, khua, làm cho kêu, vỗ: cổ
cầm 鼓琴 Đánh đàn.
“Cổ”
là đánh, gảy, khua nhạc cụ; “cầm” là đàn cầm, loại
đàn có 7 dây ngày xưa, khi đánh đàn phải dùng mười ngón tay để gẩy.
Bác Hồ mượn hình ảnh đó để chỉ đùa động tác gãi ghẻ, lý do gì Lê Xuân Đức xếp
vào ”phương ngữ Quảng Đông”?
Vậy,
bây giờ một trong hai tội: đạo văn và viết sai, Lê Xuân Đức chọn tội nào? Nếu
Lê Xuân Đức không muốn nhận mình viết sai, chỉ còn một cách là thú nhận tội đạo
văn, đạo ý tưởng của GS Hoàng Tranh mà thôi!
Văn
chương Lê Xuân Đức sao chép, hoặc kết quả của những chuyến đi “điền dã” là như
vậy. Còn những “nghiên cứu sáng tạo, thẩm bình” của riêng ông thì sao?
1.Bài
Buồn bực
Hai
câu:
Hoàn
cầu chiến hỏa thước thanh thiên,
Tráng
sĩ tương tranh phó trận tiền.
-Chữ “hoàn” Lê
Xuân Đức giải nghĩa: “Hoàn cầu (hoàn đầy đủ; cầu, quả tròn, trái đất)”. Sai
nghiêm trọng! Bởi chữ “hoàn” 環 (hoàn có bộ ngọc) trong “Hoàn cầu”
nghĩa khắp cả, “Hoàn cầu” là khắp trái đất. Còn
chữ “hoàn” với nghĩa “đầy đủ” như Lê Xuân Đức giảng giải viết là 完 (chữ
hoàn này có bộ miên - không có trong nguyên tác bài Buồn
bực của Hồ Chí Minh) có nghĩa: vẹn, đầy đủ, xong cả, tốt…, được
dùng trong các kết hợp từ như: hoàn hảo, hoàn công,v.v…
-
Từ “tráng sĩ” Lê
Xuân Đức giảng: “Tráng sĩ (tráng: mạnh mẽ; sĩ: người có học) là người có sức
mạnh, có ý chí, có tri thức”. Lê Xuân Đức lại nói sai rồi!
Vậy dũng sĩ, liệt sĩ thì sao? Chữ “sĩ” ở đây
chẳng nhẽ cũng là “người có học, có tri thức” như Lê Xuân Đức
giảng giải?
Chữ
“sĩ” trong giáp cốt văn và kim văn vốn có hình vẽ cái búa, tượng
trưng cho hình quan, và ban đầu có nghĩa là hình quan coi ngục, sau
mới thêm nhiều nghĩa khác. Tuy cũng viết là “sĩ” 士, nhưng ”tráng
sĩ” không được hiểu với nghĩa: Người trí thức trong xã hội cũ,
kẻ sĩ, học trò: Học sĩ; Sĩ nông công thương, mà là cách
gọi tôn xưng người khác.
-
Hán Việt từ điển (Phan
Văn Các): “Sĩ (cách gọi ca ngợi người khác) Liệt sĩ, dũng sĩ, nữ
sĩ”
-Từ
điển Hán Việt (Trần
Văn Chánh): “Sĩ: Người, kẻ (cách diễn đạt tỏ ý lịch sự và tôn trọng đối
với hạng người nào đó): Chí sĩ; Tráng sĩ; Liệt sĩ…”.
Như
vậy cái sai của Lê Xuân Đức ở đây xuất phát từ chỗ không phân biệt được chữ Hán
đồng âm, đồng tự nhưng đa nghĩa.
2.
Bài Đáp xe lửa đi Lai Tân
Câu ”Kim
thiên đắc tháp hỏa xa hành” (Hôm nay được đáp xe lửa). Lê Xuân Đức
bình và giải nghĩa: “Chữ tháp của Hán tự có nghĩa là gắn vào, cắm vào,
trong văn cảnh bài thơ này có nghĩa là đáp, từ mà những người quyền quý, giàu
có thường dùng để thể hiện sự sang trọng, chứ dân chúng chỉ nói là đi (xe
lửa).
-
Chúng tôi rất ngạc nhiên! Không hiểu căn cứ vào đâu, Lê Xuân Đức nói rằng: chữ
“tháp” có nghĩa là “gắn vào, cắm vào”? Hóa ra, Lê Xuân Đức đã nhầm
chữ “tháp” (đáp) với chữ “sáp” (có một âm đọc là
“tháp”).
Thưa
Nhà nghiên cứu Lê Xuân Đức, chữ “tháp” (sáp) như ông nói viết khác hẳn chữ
“tháp” (đáp) trong nguyên tác thơ Hồ Chí Minh. Chữ “tháp”(sáp)
mà Lê Xuân Đức nhầm lẫn được Trần Văn Chánh giải nghĩa: “Tháp插: Cắm,
cấy, giâm, trồng, cho vào, thọc vào, cài, gài, xen, gắn, xen thêm, gắn thêm,
giắt: Cắm hoa vào lọ; Cho tay vào túi, thọc tay vào túi”.
-
Chữ “tháp” 搭có một âm đọc là “đáp”, có
nghĩa là đi tàu, đi xe chứ không phải “trong văn cảnh bài
thơ này có nghĩa là đáp” như Lê Xuân Đức nói.
-
Chữ “đáp” 搭 đồng nghĩa với chữ “tọa” 坐, chứ chẳng
phải “từ mà những người quyền quý, giàu có thường dùng để thể hiện sự sang
trọng, chứ dân chúng chỉ nói là đi (xe lửa)” như Lê
Xuân Đức giảng giải:
+
Hán Việt từ điển (Thiểu
Chửu) “Đáp: Phụ vào, đáp đi, như đáp xa 搭車 đạp
xe đi, đáp thuyền搭船 đáp thuyền đi, v.v.”.
+Từ
điển Hán Việt (Trần
Văn Chánh): “Đáp, đi, ngồi: Đáp máy bay; Đi xe ca, đi xe đò; Tàu
(thuyền), hàng không, chở hành khách”.
- Lê
Xuân Đức nói: Ở Trung Quốc “dân chúng chỉ nói là đi (xe
lửa)”. Ông quên mất rằng mình đang bình thơ chữ Hán, tìm hiểu nghĩa chữ Hán
chứ không phải tiếng Việt. Thưa ông, người Trung Quốc (Hán ngữ) không nói đi
tàu, đi xe như người Việt Nam, mà ngoài từ “đáp”, họ
thường dùng từ “tọa” 坐 nghĩa là ngồi: tọa
hỏa xa - đi xe lửa; tọa khí xa – đi ô-tô, tọa
phi cơ - đi máy bay và không phân biệt “đẳng cấp” như ông nghĩ. Từ
điển Hán Việt (Trần Văn Chánh) đồng nghĩa từ “tọa” với từ “đáp”:
“Tọa: Đi (xe), đáp: Tọa khí xa - Đi xe hơi; Tọa
phi cơ khứ Hà Nội – Đáp máy bay đi Hà Nội”.
Ngay
từ đi tàu, đi ô tô của người Việt Nam cũng là cách
gọi tắt của đi (bằng) tàu hỏa, đi (bằng) ô tô.
Trước đây, từ “đáp” ô tô, “đáp” tàu hỏa cũng từng được người Việt
Nam sử dụng với nghĩa tương đương với từ “đi” (tàu) mà không phân biệt
người sang, kẻ hèn. Việt Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến đức):
“Đáp: Nói tàu thuyền đáp lại để đón thêm khách: Tàu đáp khách ở
dọc đường; Khách xuống thuyền để đáp tàu”.
Trong
bài “Bình và nghĩ về thơ Hồ Chí Minh” của GS Phong Lê
(tài liệu phô tô gồm toàn các GS của ta và của Tàu ngợi khen Lê Xuân Đức, do
chính Lê Xuân Đức phô tô gửi tặng nhiều người trong dịp về nghỉ 30/4-1/5 tại
Thanh Hóa) có viết: “Ông (tức Lê Xuân Đức – HTC chú
thích) thuộc trong số không nhiều người có thâm niên theo đuổi khá lâu
và khá sâu trong định hướng được lựa chọn, có những đóng góp đáng kể”.
Quả
đúng là riêng “thâm niên” 40 năm nghiên cứu “thẩm bình” thơ
của Lê Xuân Đức đã nhiều quá nửa số năm hưởng dương của Nam Trân tiên sinh rồi.
Mà đã “có thâm niên” nghiễm nhiên được lên “lão làng”.
GS Phong Lê đã lý giải hộ chúng ta, tại sao Lê Xuân Đức, cộng với tài đạo văn,
xào xáo, trở thành Chuyên gia số 1 về thơ Bác. Thực tế những sai
lầm trong sách Nhật ký trong tù và lời bình (cuốn sách
mới nhất của Lê Xuân Đức xuất bản đúng dịp 40 năm nghiên cứu thơ Bác) đã nói
lên đầy đủ ở hai chữ “theo đuổi”: Lê Xuân Đức chưa bao giờ tiếp cận
được thơ Bác! Ngược lại, đến chặng cuối Lê Xuân Đức càng thêm đuối sức, phải ăn
cắp sức lực, trí tuệ của người khác như bạn đọc đã thấy.
Cuối
cùng, chúng tôi tự hỏi: Không biết có nên “để mắt” đến 9 tác phẩm viết về thơ
Bác của Lê Xuân Đức hay không? Đặc biệt là cuốn sách được trao giải xuất sắc
của Hội nhà văn Việt Nam “Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh” trong cuộc
vận động sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật, báo chí viết về chủ đề
“Học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của Lê Xuân
Đức.
Có
lẽ câu chuyện về Lê Xuân Đức sẽ chưa dừng lại ở đây!
HTC
Tốc
ký tại Quán trọ Quang Minh
Sầm
Sơn, dịp nghỉ 30/4-1/5
Tài
tài liệu tham khảo và trích dẫn:
-Thơ
chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích – thư pháp-GS Hoàng Tranh-NXB Chính trị
quốc gia-2003.
-Nhật
ký trong tù-Hồ Chí
Minh-NXB Văn hóa-Viện văn học-1960.
-Nghệ
thuật thư pháp với thơ Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh-Nguyễn Việt biên soạn-NXB Công an nhân
dân-2004.
-Một
số Từ điển phổ thông, quen thuộc đã dẫn trong bài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét