Học trò trong Quảng ra thi...
|
Câu ca dao theo suốt một thời tuổi trẻ của tôi, như
một nhịp cầu gắn liền hai vùng đất: “Học trò trong Quảng ra thi / Thấy cô gái
Huế chân đi không đành”, lại khẳng định một trong những tinh hoa của cả hai
nơi, là truyền thống hiếu học và vẻ đẹp rạng ngời của đất và người chốn kinh
kỳ, cái đẹp của thiên tính nữ và của cả người phụ nữ. Đó cũng là lẽ tất yếu
của một thời đại lịch sử với nền giáo dục văn chương cử tử.
|
Kinh
đô là trung tâm giáo dục. Thời nhà Nguyễn, thi Hương được tổ chức ở mỗi tỉnh,
để chọn ra các cử nhân. Sau đó về kinh thi Hội là thi vòng loại để chọn người
vào thi Đình. Thi Hội không cấp bằng (chỉ có người đỗ đầu kỳ thi Hội được
phong tặng danh hiệu Hoàng giáp), nhưng vượt qua kỳ thi Hội mới được tham dự
thi Đình, để chọn ra tiến sĩ theo ba cấp là đệ nhất cấp, đệ nhị cấp, đệ tam
cấp và phó bảng. Thời ấy, không chỉ có học trò xứ Quảng ra Huế học, mà hầu
hết các vùng đất trong cả nước đều tập trung về Huế học. Và, cũng không chỉ
có xứ Quảng mới có truyền thống hiếu học, mà còn có học trò xứ Nghệ (lúc đầu
chung cho cả Nghệ An và Hà Tĩnh), rồi Kinh Bắc, Thăng Long,... nhưng xứ Quảng
là vùng đất mới, đất nghèo khó, đất gió dông, thiên tai hạn hán, đất dữ dằn
tai ương trên con đường
mở cõi về phương Nam, các sĩ tử lại lặn lội ngược dòng về kinh đèn sách.
Trong hàng trăm những danh nhân xứ Quảng xuất hiện vào đầu thế kỷ XIX đến đầu
thế kỷ XX hầu hết đều là danh sĩ, đều là những người có học, những người mà
sau bậc cử nhân đều phải về Huế học, thậm chí có người chỉ đỗ cử nhân ở quê
cũng ra Huế làm quan. Đặc điểm nổi bật ở họ là, bằng con đường này hay con đường
khác, cách này hay cách khác, trên cương vị xã hội nào, họ cũng đều là người
yêu nước, là mẫu người lý tưởng của thời đại và nếu họ có may mắn được một
người con gái Huế nào đó quan tâm để mắt đến thì cũng là lẽ thường tình.
Những ‘học trò trong Quảng ra thi” đỗ đạt một thời, ở lại Huế
đảm nhiệm các chức quan như Nguyễn Văn Dục (1807-?), đỗ phó bảng làm quan đến
chức Tế tửu Quốc tử giám, Lễ bộ Thị lang, Lễ bộ Hữu tham tri; Đỗ Thúc Tịnh
(1818-1862), đỗ tiến sĩ từng làm chức Biện lý bộ Binh; Phạm Phú Thứ
(1820-1883), đỗ tiến sĩ làm quan đến chức Thượng thư bộ Hộ, Thương chính đại
thần, Tham tri bộ Binh, hàm Hiệp biện đại học sĩ; Hoàng Diệu (1828-1882),
đỗ phó bảng từng làm Tri huyện Hương Trà, Tham tri bộ Hình, Tham tri bộ Lại,
trông coi Đô sát viện; Nguyễn Thuật (1842-?), đỗ phó bảng, từng làm Thị lang
nội các, Thượng thư bộ Hộ, Thượng thư bộ Lại, Thượng thư bộ Binh, hàm Hiệp
biện đại học sĩ; Trần Văn Dư (1842-1885), đỗ tiến sĩ, từng làm Thừa biện bộ
Lại, Giảng tập Dục Đức đường, Chánh Mông đường (dạy học cho hai vua Dục Đức
và Đồng Khánh); Phạm Như Xương (1844-?), đỗ hoàng giáp làm quan đến chức
Thượng thư bộ Hình, sung vào Đô sát viện; Phạm Liệu (1872-1936), đỗ tiến sĩ,
làm Thượng thư bộ Lại; Phan Quang (1892-?), đỗ tiến sĩ, làm Tham tri bộ
Lại... Hoặc những người từng đỗ đạt cao, nhưng từ quan, rời bỏ kinh thành,
đứng ra tổ chức hoặc tham gia các phong trào yêu nước, tên tuổi gắn liền với xứ
Huế và lịch sử dân tộc như các phó bảng Lê Vĩnh Khanh (1819-1884), Nguyễn Duy
Hiệu (1847-1887), Phan Châu Trinh (1872-1926); các tiến sĩ Huỳnh Thúc Kháng
(1876-1947), Trần Quý Cáp (1870-1908) và những người tuy “không sinh ra cùng
năm cùng tháng, nhưng đã chết cùng năm cùng tháng cùng ngày” như Trần Cao Vân
(1866-1916), Thái Phiên (1882-1916)... Trẻ hơn, những người mà sự nghiệp gắn
liền với Huế như Trần Hoành (1880-1936), Phan Khôi (1887-1960), Nguyễn Nho
Túy (1898-1977), Nam Trân (1907-1967) hoặc những người thuộc thế hệ Tây học
đầu tiên từng học ở Huế và chính nơi đây đã góp phần tạo nên tư cách của một
danh sĩ như Phan Khoang (1906-1971), Nam Trân (1907-1967), Khương Hữu Dụng
(1907-2005), Phan Thanh (1908-1939), Thiên Giang (1911-1985), Phan Du (1915-1983),
Phạm Hầu (1920-1944), Võ Quảng (1920-2000), Nguyễn Văn Xuân (1921-2007), Nguyễn Văn Bổng (1921-2001), Lê Đình Kỵ
(1923-2010), Vũ Hạnh (sinh 1926), Nguyễn Q. Thắng (sinh 1940), Tần Hoài Dạ Vũ
(sinh 1945)...Có người chỉ học ở Huế có mấy năm, nhưng chính “Thời gian học ở
Huế, là một bước ngoặt quyết định cho sự nghiệp thơ ca của Khương Hữu Dụng”
(Trần Mạnh thường, Các tác gia văn chương Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin
2008, t.1, tr.808), nhưng cũng có người đỗ tú tài ở quê, ra Huế làm Tham tán
tòa Khâm sứ, làm Tán lý bộ Lại, đã phát hiện ra Huế đẹp và thơ (1939) như Nam
Trân.
Lần theo câu ca dao “học trò
trong Quảng ra” lập nghiệp ở Huế thời ấy, đông không kể hết và không ít người
đã làm nên danh phận đối với lịch sử đất nước và đã đóng góp không nhỏ cho xứ
Huế, nhưng dấu vết của họ còn lại nơi đây thật quá ít ỏi. Người Quảng hiện
diện trên đường phố Huế lâu nay chỉ có mỗi Viện trưởng Viện dân biểu Trung
kỳ, chủ nhiệm báo Tiếng dân Huỳnh Thúc Kháng. Đó là con đường dài 3000m, chạy
dọc bờ sông Đông Ba, hình thành cùng với dòng sông đào này từ đầu thế kỷ XIX,
lúc đầu mang tên đường Quai de Dong Ba (Bờ sông Đông Ba), năm 1956 đổi thành
Huỳnh Thúc Kháng, năm 1996 cắt đoạn từ cầu Thanh Long đến Bao Vinh đặt tên
Đào Duy Anh, đường Huỳnh Thúc Kháng chỉ còn dài 1267m. Gần đây, do sự phát
triển của quá trình đô thị hóa, nhiều khu dân cư mới được hình thành, có thêm
tên đường người thành lập An Nam Phật học hội, thành lập tổ chức Thanh niên
Phật tử Việt Nam, phát minh ra sérum trong y học và là Chủ tịch Ủy ban bảo vệ
hòa bình thế giới đầu tiên của Việt Nam Lê Đình Thám, chỉ dài khoảng 500m từ
Điện Biên Phủ đến Thích Tịnh Khiết và đường mang tên người làm trị sự, phát
hành cho báo Tiếng dân là Trần Hoành, dài không quá 350m nối từ Võ Liêm Sơn
đến Cao Đình Độ. Ngoài bức tượng của bác sĩ Lê Đình Thám còn được đặt trang
trọng trong khuôn viên chùa Từ Đàm, những nơi khác như tòa soạn báo Tiếng dân
và trụ sở của công ty cổ phần Huỳnh Thúc Kháng từng được chuyển thành Cư xá
sinh viên Huỳnh Thúc Kháng, sau 1975 trở thành khu tập thể của cán bộ trường
Đại học Y Huế, nay đã xuống cấp nhếch nhác đến mức rách nát, bẩn thỉu, không
được quan tâm đến. Khu nghĩa trang của Hội đồng châu Quảng Nam rộng mấy hecta
ở đường Tam Thai cũng chịu chung số phận, bỏ mặc cho dân lấn chiếm làm nhà cửa,
quán xá, có nguy cơ xóa sạch dấu vết. Khu nhà Lê Đình Thám từng ở trước đây,
ở số 71-75 Phan Bội Châu, đã bị chia lô, hóa giá bán cho cán bộ Sở thương
nghiệp, đã không còn dấu vết gì liên quan đến người chủ cũ. Phủ của Thượng
thư Phạm Liệu, nơi nhà thơ Phạm Hầu từng ở thời thơ ấu ở số 128-134 Phan Bội
Châu, cũng bị con cháu chia lô, bán đất, khu mộ của hai cha con nằm sau lưng
chùa Vạn Phước cũng đìu hiu, không ai biết chẳng ai hay. Đáng buồn thay trên
bia mộ của thi sĩ Phạm Hầu, một trong bốn mươi sáu tác giả được Hoài Thanh -
Hoài Chân “bầu” vào Thi Nhân Việt Nam chỉ ghi có 56 chữ, đã có 18 lỗi chính
tả! Nơi ở của Thượng thư Phạm Phú Thứ, thuở còn đi học là căn gác nhỏ ở một
xóm lao động, theo nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh, là ở ven bờ sông Hương, bây giờ
là đường Trịnh Công Sơn, nơi ông sống hòa mình vào cuộc sống những người lao
khổ và đã làm hằng trăm bài thơ về họ, ký bút danh là Giang Thụ Sào (cái tổ
chim treo trên cây ven sông), nay tuyệt nhiên không thể tìm thấy dấu vết gì.
Ngôi mộ đôi của hai nhà yêu nước Thái Phiên và Trần Cao Vân trên đồi Từ Hiếu,
cũng chỉ mới được quan tâm trùng tu từ đầu những năm chín mươi, sau khi có
kiến nghị của Hội đồng hương sinh viên Điện Bàn...
Văn hóa Mỹ là văn hóa thực
dụng (nhưng thực dụng có gì là xấu), nên họ đã tìm ra khu nhà trọ của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc đã từng ở vào những năm ba mươi và đã gắn vào đó tấm biển:
“Nơi đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã từng ở từ ngày... đến ngày...”. Và, ai đến ở căn phòng của một danh
nhân đã từng ở, xin trả tiền gấp trăm lần phòng bên cạnh. Đó là bài học đối
với ngành du lịch dịch vụ ở nước ta. Ta không nên cố gắng xây dựng các khách
sạn nhiều sao để mong chiêu dụ khách nước ngoài, vì những thứ ấy, ở nước họ
không thiếu. Tại sao không khôi phục lại những không gian văn hóa của các
tiền nhân, các danh nhân, để họ đến ở và tự hào rằng đã được sống nơi một
danh nhân từng sống? Du lịch từ trong sâu thẳm tâm hồn của chủ thể, là khách
du lịch bao giờ cũng là cuộc rong chơi văn hóa. Từ văn hóa mới tạo ra kinh
tế. Du lịch bán hàng theo kiểu tiểu nông của Trung Quốc một thời thịnh hành,
đem lại nhiều thành tựu và đã tràn sang nước ta như hiện nay, không còn hấp
dẫn và thu hút khách nước ngoài. Khôi phục lại không gian văn hóa quá khứ để
kinh doanh, vừa thu lợi nhuận về kinh tế, vừa thể hiện ý nghĩa văn hóa, lại
vừa quan tâm đến di sản quá khứ của tiền nhân.
Một vùng đất văn hóa luôn được
tạo nên bởi những nhà văn hóa. Đó là những người biết trân trọng, nâng niu
từng hạt sáng lấp lánh trong đời sống quá khứ, biết đãi cát tìm vàng, để làm
giàu có thêm những giá trị văn hóa, chứ không phải sự phủ nhận, loại bỏ, xóa
sạch và xây dựng cái mới một cách thực dụng. Văn hóa là những thành tựu về
vật chất và tinh thần do con người làm ra, nhưng xét cho cùng nó tồn tại ở
dạng tinh thần là chủ yếu, nơi mà nhiều thế hệ, từ đời này sang đời khác,
từng phả tâm hồn của mình lên đó, làm nên sức sống muôn đời. Với tốc độ phát
triển đô thị hóa như hiện nay, không biết còn bao nhiêu dấu vết của những
“học trò trong Quảng” còn tồn tại bao lâu nữa ở xứ Huế
đẹp và thơ?
Phạm Phú Phong
|
Nam Trân

Thứ Tư, 25 tháng 12, 2013
Học trò trong Quảng ra thi...
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét