Nam Trân, một tài hoa xứ Quảng
Thứ Năm 10:13 05/10/2017
ĐBP - Năm nay, 2017, kỷ niệm 110 năm sinh (1907 - 2017) và 50 năm ngày mất (1967 - 2017) của Nam Trân, một nhà thơ, một dịch giả, một nhà văn hóa, một nhà giáo dục xuất sắc, đồng thời cũng là một người con ưu tú của xứ Quảng. Nam Trân tên thật Nguyễn Học Sỹ, sinh 15/2/1907 tại làng Phú Thứ Thượng, nay là xã Ðại Quang, huyện Ðại Lộc, tỉnh Quảng Nam và mất ngày 21/12/1967 tại Hà Nội, lúc 60 tuổi.
Từ lúc còn nhỏ cho đến năm 12 tuổi, Nam Trân học chữ Hán và tập
làm những lối văn trường ốc. Sau đó, ông vào học tại Trường Quốc học, Huế, rồi
Trường Bưởi, Hà Nội. Học xong, ông có bằng tú tài bản xứ và đi làm tham tá tòa
khâm sứ Huế, rồi làm tá lý bộ Lại (tòng tam phẩm) và thị lang bộ Lại (chánh tam
phẩm), cuối cùng là Án sát tỉnh Bình Ðịnh.
Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia kháng chiến, công tác ở Ủy
ban Kháng chiến hành chính huyện Ðại Lộc, rồi tỉnh Quảng Nam, làm Chánh văn
phòng Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu V. Nhập vào hàng ngũ những người
làm văn nghệ đất Quảng và Liên khu V, ông tham gia sáng tác và từng làm Chủ tịch
Ban Ðại diện văn hóa kháng chiến Khu V, dịch một số truyện Xô viết ra tiếng Việt
như Người Xô viết chúng tôi của Boris Polevoy (1918 - 1981). Sau năm 1954, ông
tập kết ra Bắc, tiếp tục tham gia hoạt động văn nghệ. Nam Trân là hội viên sáng
lập Hội Nhà văn Việt Nam.
Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân chọn 46 nhà thơ
và tuyển 169 bài thơ, thì Nam Trân có 7 bài, số lượng bằng với Thế Lữ, Hàn Mặc
Tử, chỉ sau: Nguyễn Bính, Chế Lan Viên: 8 bài, Quách Tấn: 9 bài, Lưu Trọng Lư,
Huy Cận: 11 bài và Xuân Diệu nhiều nhất: 15 bài. Cũng trong Thi nhân Việt Nam,
có 4 nhà thơ gốc Quảng, gồm Hằng Phương tuyển 1 bài, Phạm Hầu: 2 bài, Xuân Tâm:
2 bài và Nam Trân: 7 bài. Thống kê này cho thấy cái nhìn và đánh giá của các
tác giả Thi nhân Việt Nam. Nam Trân đã có thơ
đăng trên các báo và tạp chí, như: Nam phong tạp chí, Văn học tạp chí,
Tràng An, Sông Hương, Phong hóa, Tân tiến (Sa Ðéc)... Tác phẩm chính của ông:
Huế, Ðẹp và Thơ (1939).
Nam Trân là nhà thơ xứ Quảng, mang tâm hồn, khí vị đất thần
kinh, vì thế, qua Huế, Ðẹp và Thơ, ông được tặng danh hiệu “thi sĩ của xứ Huế”.
Hoài Thanh nhận xét: “Tả cảnh Huế chưa ai bằng Nam Trân… Thiết tưởng vì tình
láng giềng đất Quảng Nam không thể gửi ra xứ Huế món quà nào quý hơn nữa: lần
thứ nhất những vẻ đẹp xứ này được diễn ra thơ”.
Chất Huế bàng bạc trong thơ Nam Trân, tạo nên thần sắc về cảnh
trí xứ Huế. Thoáng những trầm tư lịch sử. Hư huyền và mờ ảo khói sương. Ðó là:
“Êm êm dòng nước Hương Giang chảy”, là tiếng chuông chùa Diệu Ðế: “Theo trăng
bóng vạc về rừng/ Sương thu phủ kín mấy từng thành xưa/ Bến sông thuyền ngủ lưa
thưa/ Tiếng chuông Diệu Ðế gió đưa lại gần”. Năm 1959, Nam Trân về công tác tại
Viện Văn học, chuyên về dịch thuật. Ông cũng là một trong những người có công mở
lớp đại học Hán Nôm đầu tiên ở miền Bắc, do Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam tổ
chức, đồng thời tham gia giảng dạy.
Nam Trân còn có bút danh là Tương Như, người tuyển và tham gia dịch
Thơ Ðường (tập 1, tập 2, do NXB Văn học in và tái bản nhiều lần), Thơ Tống, Thơ
văn Lý Trần, Thơ Quách Mạt Nhược.
Dịch thơ, lại là thơ Ðường, vốn là một việc không dễ, có thể nói
vô cùng khó khăn. Nghiêm Phục (1853 - 1921) từng đặt ra 3 tiêu chuẩn của công
việc dịch thuật. Ðó là: Tín - Ðạt - Nhã. Chuyển nghĩa một văn bản nghệ thuật, nỗ
lực lắm có khi chỉ đạt 70, 80% về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm. Dịch
thơ Ðường từng có những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng như Phan Huy Vịnh, Nguyễn
Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tản Ðà, Ngô Tất Tố, Trúc Khê, Nhượng Tống, Trần Trọng
Kim, Khương Hữu Dụng, Hoàng Tạo, Doãn Kế Thiện, Quách Tấn… Nay, có thêm một Nam
Trân. Các bản dịch của ông về thơ Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Trần Tử Ngang, Lạc
Tân Vương, Vương Bột, Vương Xương Linh, Lý Ước, Vi Ứng Vật, Lưu Trường Khanh,
Vương Chi Hoán, Ðỗ Phủ... là những công trình nghệ thuật, tài hoa, chuẩn mực, đứng
vững với thời gian.
Những bài thơ của Ðỗ Phủ, Lý Bạch, Vương Duy được tuyển chọn và
giảng dạy trong chương trình ngữ văn phổ thông là bản dịch thơ của Nam Trân,
như Vọng Lư Sơn bộc bố (Xa ngắm thác núi Lư), Tĩnh dạ tư (Cảm nghĩ trong đêm
thanh tĩnh) của Lý Bạch, Ðăng cao (Lên cao) của Ðỗ Phủ, Ðiểu minh giản (Khe
chim kêu) của Vương Duy.
Ðặc biệt, Nam Trân là người vừa chủ trì vừa dịch Ngục trung nhật
ký (Nhật ký trong tù) của Hồ Chí Minh ra tiếng Việt, xuất bản lần đầu năm 1960.
Bản dịch của Nam Trân, như Tố Hữu nhận xét, “Việc dịch tập Nhật ký trong tù là
cực khó. Vì ngoài kiến thức uyên thâm về Hán học ra, người dịch phải là nhà thơ
thì mới mong dịch thơ Bác thành thơ cho có hồn được. Chỉ có anh Nam Trân có đủ
hai mặt này”.
Nam Trân là nghệ sĩ đa tài, một nhà thơ, một nhà văn hóa xuất sắc,
một trí thức yêu nước. Năm 2017, kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam
(1957 -2017), tưởng nhớ Nam Trân là tưởng nhớ một con người suốt một đời phấn đấu
cho cái đẹp của văn học nước nhà, truyền thụ cái tinh tế của văn hóa phương
Ðông, góp phần đào tạo nhiều chuyên gia Hán học cho các ngành khoa học xã hội
Việt Nam.
T.K (b/s)
http://www.baodienbienphu.info.vn/ban-in/van-hoa/156998/nam-tran-mot-tai-hoa-xu-quang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét