Nam Trân

Nam Trân

Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

Khai mạc Hội thảo: Thơ Việt Nam hiện đại nhìn từ miền Trung


        Hội thảo đã long trọng khai mạc sáng nay, 8 – 10 – 2011 tại Sầm Sơn (Thanh Hóa) dưới sự chủ trì của nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch, nhà văn Nguyễn Trí Huân, Phó chủ tịch, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam; các nhà văn là Ủy viên BCH: Phan Trọng Thưởng, Đình Kính, Võ Thị Xuân Hà, Khuất Quang Thụy, Đào Thắng, Nguyễn Hoa, Văn Công Hùng… cùng đông đảo các nhà phê bình, nhà văn, nhà thơ miền Trung và Hà Nội về tham dự.
Ông Hồng Vinh, Chủ tịch Hội đồng lý luận VHNT TW; bà Lê Thị Bích Hồng, Phó vụ trưởng Vụ VHVN thuộc Ban Tuyên giáo TW đã tham dự hội thảo.
Các ông Vương Văn Việt, Phó chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa, Đỗ Trọng Hưng, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thanh Hóa đã thay mặt lãnh đạo địa phương đến chào mừng Hội thảo. Ông Vương Văn Việt đọc diễn văn chào mừng đánh giá cao ý nghĩa của hội thảo đối với việc phát triển văn học và thơ nói riêng, đóng góp của nó với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Nhà thơ Bằng Việt, Chủ tịch Hội đồng Thơ của Hội NVVN đọc Lời đề dẫn Hội thảo, ông gọi đây là một hội thảo mở. Ông nói:  “…thời Thơ Mới với các tên tuổi lớn như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Bích Khê rồi Nam Trân, Quách Tấn, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Thái Can và gần hơn nữa là Tố Hữu, Trần Mai Ninh, Nguyễn Xuân Sanh, Minh Huệ, Xuân Hoàng, Trần Hữu Thung rồi Phạm Hầu, Bùi Giáng, Hữu Loan… Rất đa dạng và nhiều phong cách, rất khác nhau về hướng đi trong đời và trong thơ. Rồi đến thời chúng ta như Hoàng Phủ Ngọc Tưởng, Nguyễn Khoa Điềm, Thu Bồn, Đông Trình, Trần Vàng Sao, Võ Quê, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Thạch Quỳ, Nguyễn Trọng Tạo, Lê Văn Ngăn, Ngô Kha, Hải Bằng, Thái Ngọc San, Hoàng Vũ Thuật, Ngô Minh, Thanh Quế, Ngân Vịnh, Hoàng Trần Cương, Anh Chi, Irasara và các nhà thơ nữ Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Ý Nhi, Tuyết Nga, Tôn Nữ Thu Thủy, Trần Thị Huyền Trang, Nguyễn Thị Phước… đủ hiện hình thành bức tranh hài hòa trên tổng thể, nhưng lại có bố cục hết sức phóng túng, khi rực rỡ, khi trầm lắng, chỗ chói chang, chỗ thật đằm thắm, mềm mại và uyển chuyển, thực sự lay động… Có thể nói, từ nhiều đời, thơ miền Trung đã trở thành một bộ phận hữu cơ luôn luôn phát sáng, không thể thiếu vắng trong các giá trị nổi bật, tạo nên vẻ đẹp của của nền văn hóa Việt.”

Nhà thơ Văn Đắc đọc tham luận Nét nổi bật của thơ Thanh Hóa, nhận xét rất hào hứng về hai hiện tượng thơ xứ Thanh: Hữu Loan thời chống Pháp và Nguyễn Duy thời chống Mỹ. Và kết luận: Từ những nét nổi trội như vậy, nhìn rộng ra toàn cảnh thơ Thanh Hóa, ta có thể khái quát: Thơ Thanh Hóa mạnh mẽ mà mềm mại, tự nhiên mà tinh tế, tự sự mà trữ tình, cá tính mà hòa hợp. Nó là phần máu thịt của thơ miền Trung, một mảng mầu trong bức tranh thơ Việt.

Nhà thơ Văn Công Hùng: Độc tham luận Nhà văn miền Trung Tây nguyên, từ góc nhìn trẻ.

Nhà thơ Vũ Quần Phương: Thời chống Mỹ, thơ nào cũng là thơ chính luận của chiến tranh, thơ trong các đô thị Sài Gòn rõ hơn là hiện thực chiến tranh: “Đéo mẹ đêm nay lại ngủ rừng.” Thơ miền Bắc không thế, một em bé mất chó cũng viết: “Nghe bom thằng Mỹ nổ.”

Nhà thơ Thạch Quỳ: “Thơ miền Trung trong tiến trình phát triển của thơ ca dân tộc”, có ý khẳng định không thể đơn giản hóa thơ chống Mỹ, nó đa dạng hơn, phức tạp hơn. Nguyễn Trọng Oánh viết: “Hòa vào dòng lá ngụy trang/ Tôi đi mất hút trong hàng quân đi” đó là hiện thực sâu sắc. Hiện nay các nhà thơ miền Trung đều rất có ý thức hướng về cái mới, sáng tạo mới trong thơ.

TS Hỏa Diệu Thúy với tham luận Xứ Thanh – miền đất thi ca, đặt vấn đề địa văn hóa của thơ. “Phan Huy Chú viết: Thanh Hóa mạch núi cao vót, sông lớn lượn quanh, biển ở phía Đông, núi sông rất đẹp, là một chỗ có cảnh đẹp ở nơi xung yếu. Vẻ non sông tươi tốt chung đúc nên sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ họp lại, nảy ra nhiều văn nho.” Nó làm nên nét rắn rỏi bộc trực của thơ ở đây. Nó cũng nhiều bài viết về bà, về mẹ; hình như miền Trung cả dáng hình đến phẩm chất đều có trong bà và mẹ. Và kết luận: bản sắc xứ Thanh đã tạo nên một nguồn mạch thơ giầu sắc điệu và ngược lại, thơ cũng đã góp phần lưu giữ và tỏa sáng bản sắc xứ Thanh.

Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật: Vận mệnh thơ như vận mệnh con người. Dẫn lời Trần Nhân Tông theo Bằng Việt “chấp theo lối cũ là không đúng” để khẳng định: “Thơ Việt sẽ già đi nếu không có những Trần Tuấn, Vi Thùy Linh, Văn Cầm Hải, Lê Vĩnh Tài, Đinh Thị Như Thúy, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Ly Hoàng Ly, Lưu Melan… Họ ra đời trong bầm dập nhưng đã mang linh hồn Việt thời nay, họ mở rộng đường biên thi ca. Rồi nhấn mạnh: Thơ phải thay đổi, chấp theo lối cũ là không đúng.

Nhà thơ Vương Trọng: đọc tham luận Đổi mới thơ và những điều ngộ nhận (Xin đọc toàn văn tại giao diện này).

Nhà thơ Trần Vạn Giã có bài tham luận khá độc đáo về thơ trong các đô thị miền Nam cũ, đặt nó trong tương quan lịch đại với cả nước. Ông có cái nhìn thân thiện với các tìm tòi, ý thức cách tân của nhóm Sáng tạo của Mai Thảo; ông cũng ghi nhận của dòng thơ yêu nước xuống đường, phản chiến và cổ vũ tình yêu thương đồng bào dân tộc.

Nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan có tham luận Nữ tính trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, đặt nó trên bình diện thơ chống Mỹ, cuộc chiến ác liệt đã làm xáo trộn cuộc sống, tác động vào con người mà tất cả dường như đều tấp lên vai người thiếu nữ, người vợ, người mẹ rồi người bà. Tham luận nêu bật lên sức chịu đựng của người đàn bà trong chiến tranh cũng như trong thời bình với một nhịp điệu dịu dàng tràn ngập yêu thương. Và nhận xét Có thể coi thơ Lâm Thị Mỹ Dạ như một gương mặt đại diện cho thơ nữ miền Trung, cho nét nhân hậu dịu ngọt của ngôn ngữ miền Trung.

Nhà thơ Mai Văn Hoan có tham luận Cốt cách người miền Trung qua thơ Thạch Quỳ - từ một góc nhìn. Dẫn lời Đặng Thai Mai: “Người Nghệ Tĩnh can đảm đến sơ suất, cần cù đến liều lĩnh, kiên quyết đến khô khan, tằn tiện đến cá gỗ”, MVH hình dung Thạch Quỳ chẳng những là cốt cách Nghệ Tĩnh mà còn là cả miền Trung. Trung thực, thẳng thắn đến thành “ông đồ Nghệ Thạch Quỳ”, có người nói TQ rắn hơn đá núi Quỳ mà ông dùng làm bút danh của mình. Viết về cái đói khó ai ở xứ ta viết hóm hỉnh, sinh động và thấm thía như Thạch Quỳ: “Đêm ta ngủ thì mày hóa kiến/ Bò nôn nao trong ruột đói của ta.”

Nhà thơ Hữu Kim: Miền Trung – Tây Nguyên, thơ tụ ở núi thiêng và trào nơi đầu sóng.

Nhà văn Văn Chinh nói những điểm chủ yếu của tham luận Nguyễn Khoa Điềm, từ trầm hùng đến Cõi lặng (toàn văn có trong giao diện này.)

Nhà văn Nguyễn Gia Nùng: Chữ nghĩa văn chương cần lì mịn, người đọc không thấy chữ nghĩa, chỉ thấy văn thơ. Tôi tin khoảng trời miền Trung sẽ lại xuất hiện những tài năng cột trụ cho thơ Việt như thế kỷ vừa qua.

Nhà thơ  Tùng Bách: Gọi “miền Trung - miền của thi ca.” Tố chất người miền Trung thông minh, cá tính bộc trực, mạnh mẽ khôn ngoan nhưng không khéo léo bằng người Bắc, không hảo hớn bằng người Nam’ chỉ khi cần thế cái tôi thì người miền Trung không kém phần quyết liệt. Thơ miền Trung cũng vậy, ít uốn éo, quanh co, ý tứ chặt chẽ, chữ nghĩa dễ hiểu dễ gần. Nếu không có thơ miền Trung thì thơ Việt nghèo đi rất nhiều.

Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến với tham luận

TS Lê Thị Bích Hồng: Tham luận của chị có tên “Cái tôi sử thi trong thơ Kháng chiến chống Mỹ và sự vượt qua những “ngập ngừng xao xuyến”. Tôi yêu thơ chống Mỹ từ thời sinh viên đến mãi bây giờ, cảm nhận được cái tôi sử thi rồi cái tôi sử thi nhạt dần như hiện tại nhưng tôi vẫn không ngừng yêu nó.

Về bộ sách “Quốc học Huế xưa và nay”


Ngày 17/9/ Bính Thân (23/10/1896), nhà vua yêu nước Thành Thái đã ký sắc dụ thành lập một trường học quốc gia tại Huế cho người Việt Nam được học văn minh văn hóa phương Tây lấy tên là “Pháp tự Quốc học trường” thường gọi là trường Quốc học. Cái tên Quốc học mang hai nghĩa: Nền học của nước, nền học cho nước. ngày 18/11/1896, Toàn quyền A.Rousseau đã ký nghị định để thành lập trường.
Nhà xuất bản Văn hóa-thông tin vừa ấn hành bộ sách “Quốc học Huế xưa và nay” (2013) do Hội cựu học sinh Quốc học Huế chủ trương. Ban biên tập gồm các nhà văn, nhà báo: Trần Phương Trà (chủ biên), Nguyễn Khắc Mai, Nguyễn Xuân Hoa, Phạm Khắc Lãm, Tần Hoài Dạ Vũ, Trần Hữu Lục.

Sách gồm 2 tập với 1612 trang khổ 16 x 24cm trong đó có 24 trang phụ bản màu với 830 mục từ, 100 cặp vợ chồng Quốc học Đồng Khánh – Huế. Mỗi mục từ là một thầy trò cũ với đôi nét về tiểu sử, hình ảnh. Cuốn sách có 133 bài viết và hồi ký, 155 bài thơ, 1460 bức ảnh, 15 bức tranh, tượng ảnh, 20 bản nhạc, 17 bút tích, 40 bìa sách, đặc san, 11 bản sao học bạ, công văn, giấy giá thú, lệnh bắt, trang báo, sơ đồ.
Qua cuốn sách, người đọc có thể hình dung được một phần những hoạt động của thầy trò trường Quốc học Huế trong hơn một thế kỷ đầy biến động và hiểu một phần nào những đóng góp của các thế hệ thầy trò.
Lúc đầu, trường tạm dùng một số nhà tranh của Tả Doanh Thủy Sư ở phía Đông tòa Công Sứ, phía tây Phủ Doãn. Về sau trường xây dựng hai dãy lầu có các phòng, ký túc xá, nhà học, phòng ăn, phòng tắm, sân vận động.
Đến niên khóa 1935 – 1936, trường Quốc học Huế đổi tên thành Lycée Khải Định, trường có thêm ban Tú tài tức thêm 3 lớp tương đương 10, 11, 12 hiện nay. Học sinh lớp 11 cuối niên khóa thi Tú tài bán phần. Lớp 12 chia làm 2 ban: Ban Triết lý và Ban toán. Cuối niên khóa hai lớp này thi Tú tài toàn phần ban Triết lý hay Ban Toán.
Trong niên khóa đầu, học sinh các lớp 11, 12 của Lycée Khải Định rút từ trường Albert Sarraut ở Sài Gòn và trường Bưởi ở Hà Nội. Cuối niên khóa 1936 – 1937, trường có thể tổ chức thi Tú tài bán phần và Tú tài toàn phần.
Sau cuộc đảo chính Nhật 9/3/1945, Ban Quản trị giáo sư là người Việt Nam. Các chương trình giảng dạy đều được chuyển sang dạy bằng tiếng Việt.
Sau Hiệp định Sơ bộ ngày 6/03/1946, Việt Nam phải để đoàn quân Viễn chinh Pháp sử dụng các cơ sở trường Quốc học, học sinh phải tiếp tục học ở Đại nội.
Chiến tranh Việt – Pháp xảy ra ngày 19/12/1946. Một phần giáo sư học sinh Khải Định tản ra phía Bắc (Quảng Bình, Hà Tĩnh). Phần còn lại lúc hồi cư năm 1947 đã học nhờ ở trường Thượng Tứ (trường Paul Bert cũ) và trường Lê Lợi (trường Chaigneau cũ).
Niên khóa 1948 – 1949 trường Quốc học sử dụng được trường ốc Việt – Anh và nhà lầu phía tây trường Đồng Khánh.
Sau Hiệp định Genève 20/07/1954, Pháp rút quân khỏi trường Quốc học. Trường sử dụng lại cơ sở ấy và hoàn trả nhà lầu phái tây trường Đồng Khánh. Năm học 1955 – 1956 trường được đổi tên là trường Trung học Ngô Đình Diệm, tên của Tổng thống Việt nam Cộng hòa đương thời.
Đến ngày 26/12/1956 trường tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm 60 năm thành lập trường và đổi thành trường Quốc học cho đến nay.
Trường Quốc học Huế tồn tại và phát triển đến nay được 117 năm. Mặc dầu ra đời trong âm mưu nô dịch văn hóa của Thực dân Pháp, hoạt động của nhà trường nằm trong vòng ràng buộc của chính quyền đô hộ song các thế hệ thầy và trò Quốc học Huế trong quá trình tiếp thu những thành tựu giáo dục của thế giới hiện đại đã biết vận dụng những giá trị nhân văn, những giá trị khoa học để bảo vệ truyền thống văn hiến của dân tộc, tham gia các phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.
Từ phong trào chống thuế ở Trung Kỳ vào đầu thế kỷ XX, cuộc vận động thả cụ Phan Bội Châu, để tang nhà yêu nước Phan Chu Trinh, phong trào Mặt trận Dân Chủ (1936 – 1939), Cao trào Việt Minh và cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và hiện nay trong công cuộc xây dựng đất nước, thầy và trò Quốc học Huế luôn luôn là những thành viên tích cực.
Trong 117 năm qua, truyền thống yêu nước, truyền thống dạy tốt, học tốt được các thế hệ thầy và trò Quốc học Huế giữ gìn và phát huy.
Trường Quốc học Huế là trung tâm đào tạo chất lượng cao cho miền Trung. Năm 2003, được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận là trường Trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia giai đoạn (2001 – 2010) được tặng hai Huân chương Độc lập hạng Nhất (1996, 2006), được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới” (2003)…

Trường Quốc học Huế mãi mãi còn ghi dấu ấn sâu sắc của nhiều thầy và trò của trường: Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh), Trần Phú, Bùi Công Trừng, Nguyễn Chí Diểu, Hà Huy Tập, Lê Văn Miến, Võ Liêm Sơn, Phạm Văn Đồng, Đặng Thai Mai, Tạ Quang Bửu, Võ Nguyên Giáp, Tố Hữu, Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Lân, Nguyễn Thúc Hào, Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Lưu Trọng Lư, Khương Hữu Dụng, Điềm Phùng Thị, Nguyễn Văn Thương, Trần Hoàn, Nguyễn Văn Trương, Đào Thế Tuấn… cùng nhiều tướng lĩnh, nhà khoa học, văn hóa giáo dục, văn nghệ sĩ tài năng khác…
Cuốn “Quốc học Huế xưa và nay” đã giới thiệu nhiều  vị sĩ quan, anh hùng, liệt sĩ vốn là cựu học sinh Quốc học Huế.
Các anh hùng lao động Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Đào Thế Tuấn, Phan Thế Phương, Nguyễn Văn Trương cùng anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Phạm Ngọc Thảo (Đại tá Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đại tá Việt Nam Cộng hòa). Nhiều sĩ quan, cán bộ vốn là học viên trường Thanh niên Tiền Tuyến do Luật sư Phan Anh và Giáo sư Tạ Quang Bửu sáng lập năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp được Ban Biên tập chú ý tìm hiểu và khai thác tư liệu trong đó có ông Võ Sum Đại tá Việt Nam Cộng hòa đã mất tại Mỹ.
Các hồi ký của Lê Thanh Cảnh, Bùi Hữu Thứ, Phạm Nghi, Lê Đình Phu, Nguyễn Hữu Hoằng, Nguyễn Đắc Xuân….đưa ta về những kỷ niệm về trường và không khí xã hội Huế thế kỷ 20.
Các hồi ký của Trần Thị Như Mân (bà Đào Duy Anh), Đặng Nhật Minh (“Cha mẹ tôi” viết về ông bà GS.Bác sĩ Đặng Văn Ngữ - Tôn Nữ Thị Cung), với nhiều hình ảnh xúc động. Hồi ký Bùi Công Trừng cho ta biết về những năm tháng hoạt động của ông ở Liên Xô cũ và khi bị thực dân Pháp bắt giam ở Sài Gòn, Côn Đảo. Lê Tâm (Nguyễn Hy Hiền) – Giải thưởng Hồ Chí Minh có hồi ký đầy ắp những kỷ niệm những năm sản xuất vũ khí cho Nam Bộ kháng chiến, Hồi ký Lê Quang Vịnh viết về những năm tháng u tối trong vùng tạm chiếm…
Trong “Phòng thí nghiệm số 1 Chu Lễ”, nhà giáo Ưu tú Thân Trọng Ninh đã dựng lại khung cảnh điều chế Acid Sulfurique (H2SO4) của GS Phạm Đình Ái những năm đầu kháng chiến chống Pháp…
Tôn Thất Hoàng (Nguyễn Phước Hoàng) có một hồi ký cảm động về GS. Tạ Quang Bửu. Giáo sư Nguyễn Hữu Thứ có bài viết rất hay: “Vấn đề thẩm mỹ ở trường Quốc học Huế”.
Bài viết của Trần Mạnh Thường về Đại tướng Võ Nguyên Giáo với những tư liệu chuẩn xác về vị tướng huyền thoại.
Trong sách có nhiều học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế như:
- Hồ Đình Duẩn giải ba Toán tại Rumani năm học 1978 – 1979.
- Lê Bá Khánh Trình, giải nhất và giải đặc biệt Toán tại Anh năm học 1978 – 1979.
- Ngô Phú Thanh (học sinh lớp 11) giải nhì Toán tại Hungary năm học 1981 – 1982.
- Nguyễn Văn Lượng, giải nhì toán tại Pháp năm học 1982 – 1983.
- Hoàng Ngọc Chiến, giải ba toán tại Pháp năm học 1982 – 1983.
- Lê Thị Ý Nhi, giải nhì Olympic tiếng Nga tại Liên Xô năm 1983 – 1984.
- Hồ Ngọc Hân vô địch Đường lên đỉnh Olympia năm 2009, được suất du học Úc 35000 USD.

- Gần đây nhất là Đinh Anh Minh, huy chương vàng Olympic Vật lý Quốc tế tại Cộng hòa Croatia cuối tháng 7/2010

Ngôi trường Quốc học Huế trang nghiêm với chiếc cổng cổ kính, những hàng cây cổ thụ xanh mướt, hai dãy lầu cao sơn màu hồng trên một khuôn viên rộng 5 hecta, di tích lịch sử văn hóa mãi mãi là hình ảnh đẹp đẽ trong tâm hồn các thế hệ thầy và trò của trường. 

Nhà thơ Tế Hanh tha thiết:

Ta kiếm hình xưa ở khắp đường
Nụ cười bằng nắng, mắt bằng sương
Mười lăm, mười sáu, chàng trai nhỏ
Theo mộng, theo thơ bước tới trường

… Người hãy trả cho ta tuổi nhỏ.
Xứ tình, xứ mộng của ta ơi!

Nhà thơ Huy Cận luôn tự hào với danh hiệu “Học sinh cũ của trường Quốc học Huế”. Ở bài thơ “Quốc học trường ta, Quốc học ơi!, nhà thơ kết thúc:
Mỗi thầy để lại ở trong tôi
Cái vốn yêu thương, cái vốn người.
Nghĩa bạn, ơn thầy lòng mãi nặng
Ngàn năm Quốc học của ta ơi!




Trường PTTH chuyên Quốc học Huế (ảnh: Nguyễn Thành Công)
Ban biên tập đã dành nhiều trang để giới thiệu các hoạt động sôi nổi và phong phú của các hội ái hữu Quốc học Huế từ năm 1938 đến nay. Nhiều đặc san của các khóa học, các vùng trong và ngoài nước đã thắt chặt thêm sợi dây thân ái của tình Đồng môn Quốc học Huế.
Bộ sách giành giới thiệu hơn một trăm cặp vợ chồng Quốc học – Đồng Khánh Huế. Hai ngôi trường Quốc học – Khải Định (Trường Anh) và trường nữ Trung học Đồng Khánh Huế (Trường Em) nằm cạnh nhau có mối quan hệ mật thiết trong đời sống xã hội ở Huế. Mơ ước có một ý trung nhân sau này là người vợ công dung ngôn hạnh vốn là nữ sinh trường Đồng Khánh là ước mơ của nhiều học sinh trường Quốc học Huế. Trường Đồng Khánh được thành lập năm 1917. Giữa thế kỷ 20 có nhiều đôi vợ chồng Quốc học – Đồng Khánh để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp ở Huế không thể không nhắc đến những đôi Thân Trọng Phước – Hoàng Thị Vệ, Đào Duy Anh – Trần Thị Như Mân, Hà Huy Tập – Nguyễn Thị Giáo (trong sách có bản giá thú của đôi vợ chồng này, có chữ ký của Công sứ tỉnh Hà Tĩnh năm 1928), Võ Nguyên Giáp – Nguyễn Thị Quang Thái (người vợ đầu của Võ Nguyên Giáp đã hy sinh trong tù), Lưu Trọng Lư – Tôn Nữ Lệ Minh; Đặng Văn Ngữ - Tôn Nữ Thị Cung, Cao Văn Khánh – Nguyễn Phước Ngọc Toản cùng nhiều cặp đôi khác.
Trong sách có gần 100 thầy trò cũ của trường Quốc học Huế đã và đang ở nước ngoài chủ yếu ở Pháp, Hoa Kỳ, Canada, Đức, Úc… Ở Pháp có Cao Huy Thuần, Lê Mộng Nguyên, Nguyễn Khắc Nhẫn, Trần Thanh Vân, Phạm Đình Liên, Võ Quang Yến, Lê Đình Cát, Nguyễn Thị Gi Gi, Công Huyền Tôn Nữ Quỳnh Tư… Giáo sư E.G Vidal dạy sinh vật trường Quốc học Huế năm 1994 được học sinh cũ mời thăm lại Việt Nam hiện đã 99 tuổi.
Ở Hoa Kỳ có Nguyễn Văn Hai, Nguyễn Văn Lâu, Lê Văn, Bùi Minh Đức, Bùi Hữu Tiễn - Phạm Thị Bạch Vân, Bửu Diên – Phạm Thị Hoàng Oanh, Trần Kiêm Đoàn, Huỳnh Văn Chỉnh, Đoàn Khoách - Nguyễn Thị Thanh Tâm, Nguyễn Hứa Thảo, Nguyễn Văn Đáo, Đoàn Trình, Vĩnh Quyền, Nguyễn Đắc Bích, Đỗ Kim Bảng, Lâm Bàng, Nguyễn Xuân Thiệp, Khang Lang v.v..
Ở Canada có Nguyễn Hữu Thứ, Nguyễn Ký, Phạm Mạnh Cương, Lê Hữu Mục, Nguyễn Thị Diên Chi, Vĩnh  Sính, Huỳnh Hữu Tuệ v.v..
Ở Đức có Thái Kim Lan, Nguyễn Ba v.v…
Ở Úc có Hoàng Nguyên Nhuận…
Trong “Thi nhân Việt Nam” xuất bản năm 1941 các nhà văn Hoài Thanh và Hoài Chân đã giới thiệu 45 nhà thơ trong phong trào thơ mới (1932 – 1941).
Trong 45 nhà thơ của cả nước hồi ấy có 13 nhà thơ đã từng học ở trường Quốc học Huế. Đó là các nhà thơ: Bích Khê, Huy Cận, Lưu Kỳ Linh, Lưu Trọng Lư, Nam Trân, Nguyễn Đình Thư, Phạm Hầu, Phan Thanh Phước, Phan Văn Dật, Tế Hanh, Thúc Tề, Xuân Diệu, Xuân Tâm. Cuốn “Quốc học Huế xưa và nay” đã đăng 155 bài thơ, ngoài các nhà thơ nói trên, còn có nhiều tác giả khác như Võ Liêm Sơn, Ưng Bình Thúc Gia Thị, Thảo Am Nguyễn Khoa Vy, Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Nguyễn Xuân Sanh, Khương Hữu Dụng, Bùi Công Trừng, Gia Ninh, Vĩnh Mai, Nguyễn Đình, Võ Quê, Đào Xuân Quý, Lương An, Võ Quảng, Nguyễn Xuân Thâm, Châu Liêm Nguyễn Xuân Thiệp, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Phan Duy Nhân, Trần Quang Long, Ngô Kha, Tường Phong Nguyễn Đình Niên, Sâm Thương, Tạ Ký, Trần Hoàng Phố (Bửu Nam), Tống Viết Mẫn, Nguyễn Văn Thích, Tần Hoài Dạ Vũ, Trần Hữu Lục, Phan Như, Phan Hữu Dật, Phan Xuân Hạt, Tôn Thất Mạnh Hào, Mai Văn Hoan, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Phạm Quất Xá, Quách Thoại, Phạm Nguyên Tường, Tôn Thất Viễn Bào, Trần Ngọc Trác, Mai Khắc Thuận, Võ Văn Bang, Nguyễn Mỹ Tài, Ngũ Xa Thơ, Hoàng Triều, Hoàng Xuân Độ v.v..
Trong cuốn “Quốc học Huế xưa và nay” có đăng 20 bản nhạc của các nhạc sĩ: Châu Kỳ, Đỗ Kim Bảng, Hoàng Nguyên, Hoàng Thi Thơ, Lê Mộng Nguyên, Lê Xuân Thọ, Nguyễn Đình Niêm (thơ Lê Ngã Lễ) Nguyễn Hứa Thảo (Thảo Nguyên, thơ Tần Hoài Dạ Vũ), Nguyễn Hữu Ba, Nguyễn Phú Yên, Nguyễn Phước Quỳnh Đệ, Nguyễn Văn Thương, Phạm Mạnh Cương, Phạm Tuyên, Tôn Thất Lan, Tôn Thất Lập, Trần Đình Quân (Trần Đa Mỹ), Trần Hoàn, Trần Ngọc Tĩnh (Phan Xipăng), Ưng Lang (Lời Châu Kỳ).
Trong phụ bản có đăng các bức tranh, tượng và ảnh của các tác giả: Bửu Chỉ, Điềm Phùng Thị, Lê Duy Đoàn, Lê Văn Miến (Lê Huy Miến), Mai Trung Thứ (Mai Thứ), Mai Văn Hiến, Nguyễn Hữu Ngô, Nguyễn Phan Chánh, Phan Khắc Tuân, Tấn Hoài, Thân Trọng Minh, Tôn Nữ Như Ngân, Tôn Thất Đào, Võ Thị Quỳnh.
Bộ sách “Quốc học Huế xưa và nay” đã giới thiệu được những học sinh khóa đầu tiên năm 1896, thi đậu thành chung (đíp lôm) năm 1900 như Hồ Đắc Hàm, Ưng Dự, Tôn Thất Quảng và cuối cùng là em Nguyễn Ngô Bảo Ngọc sinh năm 1995, lớp 12 chuyên Anh – Pháp trường THPT chuyên Quốc học Huế, quê xã Phong Chương huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế là thủ khoa có tổng số điểm 6 môn cao nhất tỉnh và toàn quốc (59 điểm, 5 điểm 10 và 1 điểm 9 môn văn) kỳ thi tốt nghiệp THPT khóa 2012 – 2013 (ảnh: Thừa Thiên Huế online).


Những học sinh khóa đầu tiên năm 1896, thi đậu thành chung năm 1900
Trần Phương Trà/CTV VOVonline

Xem lý lịch thành viên
Về Đầu Trang

Với Huế hôm nay

Với Huế hôm nay

HÀ MINH ĐỨC                   
Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
Với Huế hôm nay
Trường ĐHSP Huế (Ảnh: Internet)
Đoàn được đưa về ở tại khách sạn Century riverside một khách sạn sang trọng của thành phố. Trên hành lang rộng rãi có cây xanh, hoa lá trang điểm ở tầng 1, các em chia nhau quây quần quanh chúng tôi, thăm hỏi sức khoẻ, hành trình đi đường. Tuy lần đầu gặp nhưng tên tuổi các thầy, các em đã quen trên sách báo nên không có những khoảng cách xa lạ. Con gái xứ Huế có những nét đẹp dịu dàng, điều này báo chí nói nhiều nhưng khi gặp các em, người thực việc thực càng thấy nhận xét trên là đúng và có thể là chưa đủ.

Khách sạn Century riverside vừa mang tính chất hiện đại vừa giữ lại những nét truyền thống. Từ hành lang cho đến bàn ghế tiếp khách trang trí đều có mang dấu ấn của mỹ thuật cổ. Buổi sáng thức ăn tự chọn của khách phong phú. Bánh trái thơm tho, mềm mại do bàn tay khéo léo, chiều được sở thích và thị hiếu của mọi người.

Chiều xuống, chúng tôi được các anh chị mời dự buổi gặp gỡ với hai Ban chủ nhiệm Khoa Văn Đại học Sư phạm và Đại học Huế tại nhà hàng Quỳnh Hương bên dòng Hương Giang. Hai dãy bàn kê dưới những vòm cây xanh có mắc những ngọn đèn xanh đỏ tô điểm trong đêm. Trong những ngày này nước Hương Giang đục và dềnh lên cao hơn. Trong đục là lẽ thường của triền nước một dòng sông nhưng với sông Hương lại không thích hợp. Sông Hương chỉ chấp nhận dòng nước trong xanh như ngày xưa, hôm nay đã có, và mai sau sẽ có. Không khí buổi liên hoan vui vẻ. Các món ăn xứ Huế khá hấp dẫn. Cá ngon hấp trong quả bầu non, hương thơm và vị ngọt. Cua bấy rán cũng lạ miệng. Các anh vui chuyện say sưa, ngất ngư chạm chén. Đêm xuống, Huế mau trở về với vẻ tĩnh lặng của một thành phố cổ lâu đời. Sáng mai như chương trình đã hò hẹn. Đoàn gặp gỡ các cộng tác viên của Tạp chí Văn học với các anh chị Lâm Thị Mỹ Dạ, Võ Quê, Nguyễn Khắc Thạch, Nguyễn Xuân Hoà, Bửu Nam, Trần Thái Học, Hồ Thế Hà... Không khí ấm cúng, trao đổi cởi mở chân thực. Các anh chị khen Tạp chí Văn học là tờ báo nghiêm túc có tính học thuật, khách quan, chọn người đọc. Nhược điểm là chưa thật gắn với đời sống văn học đương đại, thiếu phần phê bình văn học và cần tăng thêm nhiều chuyên mục cho phong phú hơn. Cần có những tổng kết, đánh giá văn học qua từng chặng đường phát triển. Ý kiến đóng góp của các anh chị rất chính xác. Văn nghệ sĩ Huế gồm những tên tuổi riêng đáng trân trọng, nhưng tổng thể cũng là một khối gắn bó của một miền đất có truyền thống nghệ thuật và phong cách riêng mang đậm bản sắc của xứ Huế. Chỉ riêng về thơ Tố Hữu, Nam Trân, Thanh Hải đến Lương An, Nguyễn Khoa Điềm, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Võ Quê... phong vị thơ sâu lắng mà ngọt ngào.

Tôi nhớ vào tháng 2/2003, Câu lạc bộ thơ Huế của Hà Nội đã mời tôi nói chuyện về phong cách Huế trong thơ Tố Hữu. Buổi nói chuyện có nhiều cái khó, người nghe là người xứ Huế có trình độ và đa phần nghỉ hưu sau nhiều tháng năm trải nghiệm nên có yêu cầu riêng mà người nói ở xứ khách không dễ đáp ứng được. Huế thơ mộng, Huế buồn, Huế với bao nhớ thương của những người con xa quê Mẹ. Tất cả đã thấm vào thơ của bao thế hệ. Nhưng có lẽ dấu ấn đậm đà nhất là văn hoá xứ Huế, một phẩm chất văn hoá kết tinh từ bao giá trị tinh thần từ một vùng đất thực học của chốn kinh kỳ. Những sinh hoạt văn hoá phong phú, thanh lịch, nhiều màu sắc thể hiện trong kiến trúc, hội họa, âm nhạc, thơ ca đã đưa Huế lên vị trí một vùng đất tiêu biểu, mang tầm văn hoá của toàn quốc. Nhiều tác giả như Tố Hữu, Hải Triều, Nam Trân, Trịnh Công Sơn, Điềm Phùng Thị đã thuộc về những danh nhân của đất nước. Viện trưởng Viện Văn học Hunggari, giáo sư tiến sĩ Laszlo Sz
Orenyi trong chuyến du lịch vào các tỉnh miền Trung đã nhận xét là các tỉnh miền Trung như Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị đều có những nét giống nhau từ rừng biển, làng quê, ruộng đồng, đô thị... nhưng Huế khác biệt, gây ấn tượng ở dấu ấn văn hoá có bản sắc riêng. Dọc đường đi ông xúc động với nhiều cảnh đẹp nhất là khi chiều xuống bóng núi toả mát một vùng, những con trâu lặng lẽ gặm cỏ, cảnh vật gợi lên sự êm đềm của những câu chuyện cổ tích xưa. Đường vô xứ Huế là con đường đẹp, non nước gợi cảnh, gợi tình...

Đến với Huế trong một hai ngày sẽ được thăm Đại Nội, chùa Thiên Mụ, lăng Tự Đức, nghe ca Huế và thả hoa đăng trên dòng Hương. Đến với Huế trong một tuần có thể thăm nhiều lăng tẩm Tự Đức, Minh Mạng, Khải Định. Thăm các nhà vườn cổ Phú Mộng, Kim Long và Bảo tàng nghệ thuật. Đến với Huế dài ngày, tâm lý khảo cứu dễ nẩy sinh; trước những giá trị tinh thần phong phú, du khách có thể bị đồng hoá và quên đường về. Văn hoá xứ Huế có tính chất tổng hoà và phát triển đồng đều của nhiều loại hình văn nghệ, như thơ ca, hội họa, kiến trúc, âm nhạc... và ở mỗi loại hình đều có giá trị kết tinh ở tầm cỡ quốc gia và cao hơn là di sản văn hoá của thế giới! Không dễ có thể đánh giá hết giá trị của kiến trúc Huế từ kiến trúc nội đô cho đến những nhà vườn rồi sự hiền hoà tuyệt diệu của nhã nhạc, chất buồn thương và thanh cao da diết của những điệu hò sông nước. Giọng nói xứ Huế ngọt ngào, thanh tao và cầm giữ lòng người. Những bàn tay khéo léo của người con gái xứ Huế thêu thùa, cắm hoa và chăm sóc những món ăn ngon lành tinh vi và mang nhiều nét nghi lễ mà ân cần chiều chuộng. Huế chưa phải là miền đất giàu có. Một thành phố của quan chức, viên chức và người học hành nên cũng không dễ giàu có. Nhưng nổi bật lên là sự giàu có của những giá trị tinh thần được kết tinh và toả sáng.

Một Festival Huế được tổ chức thành công là một chứng minh cho tính tiêu biểu và hấp dẫn của văn hóa Huế - một điểm sáng của văn hoá dân tộc. Đêm Festival lộng lẫy vẫn còn in đậm ấn tượng trong tôi với các sân khấu biểu diễn náo nhiệt, lôi cuốn. Nhã nhạc cung đình Huế thanh tao và rộn ràng trong bao âm thanh và đúng như giáo sư Trần Văn Khê nhận xét là các cung đàn như đua tranh mà không hề lấn át nhau. Lắng nghe thấy tiếng nói của thanh bình và niềm vui hạnh phúc và cảm nhận rõ cấu trúc nghệ thuật đa thanh rất công phu này. Nhã nhạc cung đình, di sản văn hoá phi vật thể được thế giới công nhận là niềm tự hào của Huế và vinh dự chung cho nhân dân ta. Cũng trong đêm Festival, khi nhìn ngắm dòng người mặc áo dài trên Cầu Trường Tiền - tôi cảm thấy như bắt gặp nguồn chảy vô tận của cái đẹp. Thì ra chiếc áo dài không chỉ đẹp với chốn cao sang và cũng rất đẹp trong vẻ bình dị dễ thương của các cô gái gồng gánh trên vai. Những chiếc áo tứ thân, áo dài cộc hoặc thướt tha đều có vẻ đẹp riêng. Huế quy tụ về đây cái đẹp gần gũi mà chắt lọc.

Trở về Huế lần thứ hai sau hơn hai mươi năm xa cách, tôi đã bắt gặp một Huế khác xưa, phồn hoa, hiện đại. Năm 1976, tôi vào Huế thỉnh giảng cho lớp học ở Tổng hợp Văn khoá I. Lớp có khoảng 40 sinh viên trẻ trung tươi sáng. Hôm nay còn gặp lại các anh Hồ Thế Hà, Phạm Phú Phong... Lớp học Tổng hợp Văn khoá I học ở Mô-ranh một toà nhà cũ của Pháp. Ngồi trên chiếc máy bay I-ắc cổ của Nga, tôi thật sự không yên tâm. Máy bay lượn nhiều vòng trên bầu trời thành phố để hạ cánh. Tôi có cảm xúc lạ khi thấy dưới đất mồ mả quá nhiều. Tuy được xây cất công phu nhưng vẫn gây ấn tượng nặng nề. Những ngày dạy học, đôi lúc dạo chơi thấy phố phường nghèo nàn, hàng hoá còn khan hiếm. Thành phố cổ trầm lặng với những nét u hoài. Huế hôm nay như một cô gái đã thức dậy, với sức sống và vẻ đẹp hấp dẫn, hiện đại.

Buổi tối, theo kế hoạch, chúng tôi được mời đi nghe ca Huế trên du thuyền. Gọi là du thuyền nhưng đúng hơn là cả đoàn khách và chủ cùng lên một chiếc phà máy chạy ra giữa dòng. Sông Hương về đêm đẹp lạ lùng. Dòng trôi lặng lẽ, ánh sáng của đèn của sao lấp lánh trên mặt nước. Nước sông Hương như vừa trôi, vừa dừng lắng, lấp lánh mảng tối, mảng sáng như chứa đựng bao câu chuyện của thời gian. Tiếng hát sông Hương đã có tự bao đời, đến với bao tâm hồn lặng lẽ, thẳm sâu. Trong một lần đến Trung Quốc và thăm tờ báo Văn nghệ, một nhà văn hỏi tôi: “Sông Hương đẹp, chuyến du thuyền trong đêm là một kỷ niệm khó quên. Tôi thích nghe ca xứ Huế nhất là lại do các cô gái đẹp hát. Những cô gái Huế này có thể xem là những cô gái đẹp nhất Việt Nam không?”. Tôi trả lời: “Ở Việt Nam có nhiều vùng có các cô gái đẹp và Huế là một nơi tiêu biểu. Có dịp mời đồng chí thăm nhiều vùng và đồng chí sẽ đánh giá và chấm điểm”. Nhà văn Trung Quốc cười: “Được như thế thì quá hạnh phúc”. Tiếng máy nổ tắt và tiếng hát đã cất lên. Trữ tình, điêu luyện và thánh thót trong đêm. Các cô Hiền Lương, Hải Yến... vừa hát vừa gõ nhịp chén, âm reo vang... đưa người nghe về xứ mơ mộng. Năm cô ngồi sát bên cạnh nhau theo chương trình lần lượt trình bày phần của mình. Mỗi người một vẻ duyên dáng, hấp dẫn. Có cô trầm ngâm, có cô sốt ruột nhìn đồng hồ và gọi điện thoại di động. Hình như có cuộc hò hẹn nào nữa ở nơi xa. Vẫn nền nếp duyên dáng như xưa, nhưng có thể nếp sinh hoạt thời hiện đại đã đến với mỗi người.

Khi vừa ngưng tiếng hát, là thú chơi thả đèn hoa đăng trên sông Hương, chiếc đèn giấy có thắp nến ở bên trong. Những chiếc đèn hồng, đèn xanh lần lượt được thả xuống nước và trôi ra xa. Các cô gái khéo léo lưng mềm cúi sát nước để thả đèn nên đèn không tắt. Tôi vụng về và thả đèn từ trên cao nên bị chìm và đèn tắt ngay khi chạm nước. Máy lại nổ, phà dần dần cập bến kết thúc một đêm vui đặc sắc đậm đà phong vị của xứ Huế. Không gian khoáng đạt của sông nước, âm thanh trữ tình gợi cảm và tình người đầm ấm của chủ khách còn đọng lại mãi trong chúng tôi. Về Huế, chúng tôi gặp lại nhiều người bạn thân quen, các anh Nguyễn Đình Thảng, Nguyễn Xuân Hoà vốn là cán bộ khoa Văn ở Hà Nội nay đã vào tuổi nghỉ hưu. Các anh chị nghiên cứu sinh các khoá, nhiều người đã là tiến sĩ hoặc đang cố gắng hoàn thành luận án trong năm tháng cuối cùng. Các anh chị mời đoàn đến Nam Châu hội quán một nơi gặp gỡ sang trọng của quan lại Huế ngày xưa hoặc với quan khách lai kinh. Nam Châu hội quán giới thiệu văn hoá ẩm thực Huế gồm nhiều loại hình ẩm thực cung đình, lễ hội, dân dã. Nhà hàng vừa có dáng dấp nơi nghênh tiếp quan khách xưa với cách bài trí sang trọng, cổ kính, vừa có nét tân kỳ, hiện đại. Chúng tôi ngồi quây quần ở hai bàn và thưởng thức những thức ăn đặc sản của xứ Huế. Có người nói người Huế không ăn mà thưởng thức, chuyện trò, nhấm nháp đôi chút. Thức ăn phải vừa đẹp, vừa xinh xắn, ngon lành, nhiều hương vị, màu sắc. Thực khách luôn bị kích thích và rung động giác quan khi cay cay, ngọt ngọt, deo dẻo, khi dai dai, ròn ròn. Biết chúng tôi là khách đường xa chú trọng chất lẫn lượng, nên các anh chị đã chọn một thực đơn thích hợp có nem cắm thơm, chả phượng, xúp cua trứng gà, bánh bèo tôm, cá chiên bột sốt cà chua, cơm hấp lá sen, chè bông cau... Bữa ăn ngon lành lại được chụp ảnh kiểu cách với các cô gái Huế của quán Nam Châu. Thật khó quên. Nam Châu hội quán gây ấn tượng đẹp về nghệ thuật ẩm thực xứ Huế.

Ấn tượng đẹp lại được tiếp nối. Ấy là buổi chiều được gặp gỡ giao lưu với các em học sinh khoa Văn. Hai anh Trương Đăng Dung và Phan Trọng Thưởng muốn được đi thăm những di tích lịch sử, lăng mộ đền đài của Huế. Tôi đã có dịp thăm các lăng Tự Đức, Khải Định, Minh Mạng và một số chùa đẹp. Tôi nghĩ thầm Huế quy tụ khá nhiều di tích đẹp, nếu ở một nơi nào kể cả Hà Nội được san sẻ một phần thì thật là may mắn. Một dịp nào khác, tôi sẽ đi thăm các di tích và ghi chép kỹ càng. Chiều nay tôi tham dự buổi giao lưu với các em sinh viên. Hội trường rộng, sinh viên nhiều lớp lần lượt đến ngồi kín các dãy ghế. Tôi được mời nói chuyện, sau đó các em sinh viên đặt câu hỏi. Cũng như mọi cuộc giao lưu với lớp trẻ, không khí bao giờ cũng sôi nổi, vui vẻ. Chuyện học thuật pha lẫn chút ít với chuyện đời. Tôi tuy không trực tiếp dạy các em nhưng cũng dễ gần gũi trong quan hệ thầy trò. Nhiều câu hỏi của các em khá sâu sắc. Có em hỏi tôi “Thưa thầy em biết thầy đã giao lưu với sinh viên của nhiều trường đại học. Những buổi giao lưu đã để lại trong thầy những ấn tượng và kỷ niệm sâu sắc nào về thế hệ sinh viên chúng em”. Một em khác hỏi “Thầy viết sách Mấy vấn đề thơ Việt Nam hiện đại trong hoàn cảnh đất nước đang kháng chiến chống Mỹ. Vậy thầy đã có những thuận lợi và khó khăn như thế nào khi viết cuốn sách này”. Tôi nói về những khó khăn khi đi vào ngành văn học với người nhập môn cũng như đã lâu năm. Cuốn sách mà các em nhắc cũng thu hút nhiều sức lực của tôi nhất là trong chiến tranh thiếu tư liệu, thời gian và cả điều kiện vật chất.

Tôi rất thích những cuộc giao lưu với sinh viên. Trước các em tôi dễ quên đi mọi mệt nhọc, khoảng cách về tuổi tác và muốn hoà nhập với thế hệ trẻ rất hồn nhiên và yêu đời. Có em muốn thóc mách một chút vào hoàn cảnh riêng “Thưa thầy, em có được nghe các thầy trong khoa nói về đôi mắt rất có hồn của thầy, các thầy có nói đã rất nhiều cô gái chết đuối trong mắt thầy. Vậy đã có bao nhiêu cô làm thầy”điêu đứng”. Xin thầy hãy kể rõ một tình yêu đẹp mà thầy còn nhớ mãi”. Tôi không dám nhắc lại và trả lời câu hỏi vì xấu hổ. Nếu có chút ít thì đã là cổ tích rồi và hôm nay chỉ còn là cảnh “Nhập nhoè bốn mắt tranh mờ tỏ” như câu thơ xưa. Buổi nói chuyện kết thúc, tôi có những ấn tượng đẹp về lớp trẻ học đường ở miền Trung. Tôi chào các em và cùng các anh Phan Trọng Thưởng và Trương Đăng Dung đi thăm hoàng cung như đã hẹn cùng nhau. Trời đã về chiều nhưng nắng vẫn còn gắt. Chúng tôi muốn có bức ảnh kỷ niệm được đóng vua giả và mặc áo hoàng bào. Các chị làm việc ở khu vực này đã chuẩn bị ra về, nhưng nể chúng tôi nên cũng nhân nhượng phục vụ những người khách cuối cùng. Quả là một trò vui lý thú. Chúng tôi cả ba người đều thuộc dạng bệ vệ đậm người không ai cao vượt 1m65 nên những ông vua này không biết của thời nào. Anh Phan Trọng Thưởng mạnh mẽ dáng vua Hùng và không mấy ông vua có sức vóc đó. Anh Trương Đăng Dung đeo kính trắng lại giống vua Tây. Trong lịch sử vua ta, tôi chưa thấy vua nào thiết triều mà đeo kính cả, còn tôi, nhiều tuổi nên chậm chạp dáng ngọa triều. Tôi nghĩ dịch vụ này có thể làm tốt hơn. Quần áo, mũ miện, giầy dép nên thay đổi cho mới hơn, nghi thức cần sang trọng để cái “phút huy hoàng” ấy cỏ vẻ thật hơn. Một nhà báo Việt Nam trong chuyến thăm Thổ Nhĩ Kỳ về có cho tôi xem những bức ảnh được làm vua Thổ trong giây phút. Quần áo, mũ miện đẹp, sang trọng, vua được trang điểm giống với vua bản xứ và một cung nữ đẹp rất gợi cảm cận kề. Cho dù là đóng giả nhưng những phút giây và hình ảnh tươi đẹp ấy không dễ diễn ra hai lần trong đời.

Buổi chiều theo kế hoạch đã hò hẹn, chúng tôi dự liên hoan ở quán nổi bên bờ sông Hương. Thú vị nhất là trước giờ hẹn đi lang thang trong vườn tượng bên dòng sông Hương. Vườn tượng ở xứ Huế là một sáng kiến rất hay của thành phố. Chúng ta chưa mạnh về điêu khắc, về tượng đài. Các nghệ sĩ ở nhiều xứ sở đến thăm Huế, và để lại một tác phẩm cho thành phố. Thật có ý nghĩa biết bao. Điều này không dễ làm được ở các thành phố khác. Không chuyên lắm, nhưng tôi thấy có nhiều pho tượng đẹp, chỉ tiếc là phần bệ có chỗ chưa tương xứng và nhất là việc bảo quản. Khí hậu nặng nề và mưa nắng thất thường của miền Trung rất dễ làm cho tượng đá cũng đổ mồ hôi và nứt vỡ và có nhiều pho tượng đã nứt vỡ. Nghệ thuật ngoài trời ở nước ta phải chịu nhiều thử thách hơn. Ngồi trên quán nổi ở sông Hương cùng với các anh Nguyễn Khắc Thạch, Hồ Thế Hà, Trần Thái Học..., chúng tôi nói lời chia tay để mai lên đường. Tôi hình dung lại những hình ảnh đẹp của Festival Huế mà thấy cảm phục và yêu quý hơn đất Huế, văn hoá Huế hôm qua và ngày nay. Kiến trúc nội đô Huế đã trở thành di sản văn hoá Huế thế giới. Văn hoá Huế hôm qua và ngày nay. Kiến trúc nội đô Huế đã trở thành di sản văn hoá thế giới. Văn hoá xứ Huế đã được công nhận nhưng vẫn đang được khám phá nhất là con người giàu tiềm năng của xứ sở này.

Trong buổi chia tay, một em nữ sinh tôi quen trên du thuyền đến tặng cho tôi một chiếc đèn có khung sắt nhỏ treo một bình thuỷ tinh đựng nến. Em nói với tôi: Đây là ngọn đèn không bao giờ tắt. Nến chảy xuống lại tiếp tục nuôi dưỡng ngọn đèn, thầy giữ gìn chút kỷ niệm của em. Về Hà Nội tôi để trên bàn làm việc, ai đến cũng ngắm nghía nâng niu, và một em sinh viên đã để rơi vỡ. Em chạy khắp Hà Nội mua một chiếc đèn khác để thay vào. Tôi gửi lại em và bảo: Em cầm về và nhớ nên cẩn thận hơn, không có gì thay thế được một vật kỷ niệm đã mất. Chuyện đã qua, nhưng tôi cứ ân hận mãi. Những kỷ niệm về Huế qua chuyến đi gợi cho nhiều cảm xúc và tôi đã biết bài thơ Nghe hát trên sông Hương để ghi lại chút kỷ niệm:

... Ôi câu ca xứ Huế
Nghe thương em nghe thấy thương mình
Trên dòng chảy lênh đênh
Mà sao thấy mong manh kiếp người
Trong câu ca có lời ru của mẹ
Có điệu hò khuya sông nước.
Chuông chùa vẳng xa đưa
Và tình em vẫn còn thổn thức
Huế thắt lòng ai trong tiếng hát xưa
Để hôm nay buồn vui cùng vào hội.
Huế đang lớn lên và góp phần làm giàu cho đất nước với những giá trị tinh thần phong phú, đậm đà bản sắc. Quá khứ của Huế đang làm giàu cho hiện tại và tương lai.

H.M.Đ