Tôi không có may mắn có mặt trong những ngày Viện
Văn học dịch Nhật ký trong tù bởi một lẽ đơn giản, tôi về Viện vào cuối tháng
12 năm 1960 mà bản dịch đã được công bố vào 7 tháng trước đó. Nhưng sống trong
những tháng năm diễn ra sự kiện cả nước đón nhận tập thơ của Hồ Chủ tịch, tôi từng
cảm nhận được không khí của bạn đọc khắp miền Bắc hào hứng tìm hiểu và thưởng
thức tập thơ như thế nào. Và tôi hình dung Viện Văn học đã phải chuẩn bị một kế
hoạch công phu, tỉ mỉ cho việc dịch tập thơ này. Vào năm 1977, khi Viện trưởng
Hoàng Trung Thông nhận chỉ thị của ông Tố Hữu bổ sung, chỉnh lý Nhật ký trong
tù để chuẩn bị in lại nhằm kỷ niệm 40 năm Ngục trung nhật ký ra đời (1943-1983)
và cho thành lập một tiểu ban chuyên trách, giao cho tôi làm người chịu trách
nhiệm chính, tôi liền lần tìm lại toàn bộ hồ sơ lưu trữ về lần dịch thứ nhất.
Tôi được anh Đỗ Đức Hải, trưởng phòng Tư liệu thư viện trao cho hai cặp tài liệu
đem về Ban Văn học cổ cận đại sử dụng. Mở cặp ra xem xét, nhiều điều khiến tôi
ngạc nhiên đến không ngờ.
Điều
thứ nhất. Viện Văn học đã hoàn thành bản dịch tập thơ trong một
thời gian ngắn kỷ lục. Viện thành lập tháng 5 năm 1959, khoảng vài ba tháng
sau, người từ các cơ quan khác mới lục tục chuyển về, trong số đó có nhà thơ
Nam Trân. Ông có mặt với tư cách trưởng phòng Tư liệu của Viện vào cuối năm 1959.
Ông nhận dịch Ngục trung nhật ký
với Viện khi đã là trưởng phòng Tư liệu, vì một xấp bản thảo viết tay chép nháp
thơ dịch của ông lưu trong hồ sơ được viết trên một tập giấy pơ-luya có một mặt
là bản sao chữ Hán những bài thơ trong bản gốc Ngục trung nhật ký do chị Phạm Tú Châu, nhân viên trong
phòng chép theo đề nghị của ông. Mặt khác, nói về bản gốc tập thơ của Hồ Chí
Minh thì tuy đã xuất
hiện trong cuộc triển lãm cải cách ruộng đất năm 1955, nhưng sau đó lại lặng lẽ
đi vào kho lưu trữ của trung ương Đảng, cho đến đầu năm 1959 mới được ông Phạm
Văn Bình phát hiện lại rồi mới cộng tác với ông Văn Phụng, có thêm sự giúp đỡ của
cụ Bùi Kỷ để “lược dịch” thành thơ như cách gọi của các vị. Vậy thì, sớm nhất
cũng phải đến tháng 10 năm 1959 mới có cuộc gặp gỡ giữa Giáo sư Đặng Thai Mai
và ông Hoài Thanh, Viện trưởng và Viện phó Viện Văn học với ông Tố Hữu để ông Tố
Hữu trao bản “lược dịch” của nhóm Phạm Văn Bình (dưới bút danh Văn Trực - Văn
Phụng) cho Viện, cùng với chỉ thị của cấp trên yêu cầu Viện chính thức dịch Nhật ký trong tù. Thế mà trong
quyển nhật ký làm việc của nhà thơ Nam Trân nhan đề “Về việc xuất bản tập thơ của
Bác” cũng lưu trong hồ sơ, ta thấy, ngay trong đầu tháng giêng năm 1960, tiểu
ban dịch đã phải lo hàng loạt việc dồn dập, đều xuất phát từ sự chỉ đạo của ông
Tố Hữu: liên hệ với các cơ quan hội họa tìm một số họa sĩ danh tiếng cùng nhau
trang trí, vẽ bìa Nhật ký trong tù
nhằm chọn lựa ra một sản phẩm tốt nhất; liên hệ với các Nhà xuất bản Văn hóa,
Phổ thông cho xuất kho hai loại giấy thường và giấy bản, quy định ba khổ sách cỡ
to, cỡ bình thường và cỡ nhỏ, tính số lượng in và các mức giá cả; liên hệ với
Nhà xuất bản Ngoại văn đưa bản dịch cho họ để họ dịch ra tiếng Pháp tiếng Anh;
liên hệ với Vụ Liên lạc văn hóa với nước ngoài của Phủ Thủ tướng để phát hành
sách đi các nước xã hội chủ nghĩa, và với Đại sứ quán Trung Quốc để họ cho in lại
nguyên văn ở Bắc Kinh; góp ý với cụ Phạm Phú Tiết về một số bản viết chữ Hán
chưa đẹp cần viết lại, v.v... Có nghĩa là đến khoảng cuối tháng 12 năm 1959, bản
dịch đã xong hoàn chỉnh, đã được Viện và trên thông qua, chỉ còn phải tập trung
vào khâu xuất bản. Thử nghĩ xem, trong vòng hai tháng(1) - trong khi
lẽ ra phải là hai năm hoặc lâu hơn nữa - một tập thơ 133 bài chọn dịch 114 bài
đã được chuyển ngữ nghiêm chỉnh ra thơ mà ảnh hưởng của nó trong năm 1960 và
nhiều năm về sau như nhiều người đều chứng giám: làm lay động sâu sắc tâm hồn bạn
đọc thuộc nhiều thế hệ, nhiều tầng lớp xã hội, với số lượng cụ thể của lần in
thứ nhất 45 vạn bản in phổ thông và 2 vạn bản in có kèm chữ Hán được bán hết và
phải nối bản ngay trong cùng năm đó. Vấn đề đặt ra ở đây là: chỉ nói về phía bản
dịch chứ không nói uy tín của tác giả Hồ Chí Minh đối với tập thơ, thì ai là
người đóng vai trò quyết định thành công tốt đẹp và nhanh chóng thần kỳ đến thế?
Những năm sách mới ra mắt, ngoài các cán bộ Viện Văn học và một số nhà thơ, nhà
văn nào đấy quen biết với Viện, một số vị lãnh đạo ở Ban Tuyên giáo trung ương,
câu hỏi này hầu như không ai rõ. Còn ngày nay thì chúng ta đều biết đó là công
lao của Nam Trân, một nhà thơ có danh trong làng thơ mới, cũng là một trí thức
có cả vốn Hán học lẫn vốn Tây học sâu rộng. Có thể nói, Nam Trân đã lĩnh nhận một
nhiệm vụ rất khó khăn trong phạm vi một thời gian quá hạn hẹp, nhưng bằng nỗ lực
và tâm huyết phi thường không một ai sánh kịp,
bằng sự cảm thụ thơ tinh tế và tài năng của một nhà thơ đích thực, ông đã biến
nhiệm vụ chính trị gian khổ kia thành niềm hứng thú trọn vẹn. Hơn đâu hết,
trong phạm vi công việc dịch gấp gáp khẩn trương Ngục trung nhật ký có lẽ đã bắt ông làm ngày làm đêm liền
trong hai tháng, Nam Trân đã chứng tỏ cái quy luật sau đây muôn đời vẫn đúng: dịch
bao giờ cũng là đồng sáng tạo.
Điều thứ hai.
Nhưng tập hồ sơ lưu trữ về việc dịch tập thơ của Hồ Chí Minh còn hé lộ một nét
đặc biệt trong phẩm cách nhà thơ Nam Trân. Ông đã đảm nhận công việc dịch Nhật ký trong tù một cách cực kỳ
cẩn trọng và chu đáo. Không phải vì thời gian quá gấp mà ông tắc trách trong
khi chuyển ngữ. Chị Phạm Tú Châu hiện vẫn còn trong cặp tư liệu cá nhân những bản
chép các bài thơ dịch của Nam Trân có hai dị bản. Riêng tôi, khi đọc vào tập hồ
sơ, tôi vô cùng kinh ngạc tìm ra không phải là hai mà hầu như bài thơ nào ông
cũng dịch và chữa đến ba, bốn thậm chí năm lần. Chữa đi chữa lại đến nát cả bản
thảo, viết bằng bút chì, bằng mực tím, rồi mực xanh, rồi lại đến mực đỏ chèn
lên trang giấy, rồi sau cùng lại xóa đi viết lại, đó là hiện trạng của bản thảo
dịch thơ Nam Trân mà chúng ta còn giữ được. Qua từng trang như thế, tôi hình
dung ra tinh thần khổ công “thôi xao” của Nam Trân trong tìm vần gọt chữ, chẳng
phải chuyện ngẫu hứng đối với một vài bài nào đó mà đối với cả tập thơ suốt hai
tháng ròng. Chính là lương tri của một người dịch có trách nhiệm, hơn thế nữa cảm
xúc tinh tế của một nhà thơ muốn tìm bằng được những câu, những chữ truyền đúng
cái hay của nguyên tác, đã thôi thúc sự lao động nghệ thuật miệt mài của Nam
Trân.
Bài tại Túc Vinh nhai bị khấu
lưu có lẽ là bài ông dịch mà không ưng ý. Không ưng ý là ở câu cuối:
Bả nhân danh dự bạch hy sinh nghĩa
là khiến cho danh dự của người mất sạch. Lần đầu ông dịch:
Đất Túc Vinh làm mình bị nhục,
Rắp tâm cản trở bước ta đi.
Tình nghi gián điệp vu nên tội,
Làm mất thanh danh chẳng ích gì.
Dịch “Làm mất thanh danh chẳng ích gì” thì tiếng nói thống trách của người
làm thơ đối với việc bắt bớ của nhà cầm quyền Quốc dân đảng xâm phạm trắng trợn
đến danh dự của con người chưa thể hiện rõ, lại phải thêm vào ba chữ “chả ích
gì” không có trong nguyên văn. Vì thế ít lâu sau ông đã dịch lại:
Túc Vinh làm nhục chuyện không ngờ,
Cố ý làm cho chậm bước ta.
Bịa đặt nghi cho là gián điệp,
Giết ngang danh dự của người ta.
Bài thơ đã có vẻ hay hơn. Tuy nhiên,
Nam Trân vẫn không thỏa mãn, chắc là do câu chữ còn nhiều trùng lặp: bước ta/người ta; làm cho/nghi cho. Hay như chữ
“giết ngang” ngỡ như độc đáo xem ra cũng chưa ổn. Ông quyết định dịch lại lần nữa:
Tới đây bị nhục, chuyện không ngờ,
Giữa cuộc hành trình cản bước ta.
Vô cớ bày ra trò gián điệp,
Xéo lên danh dự thế này a?
Nếu nói về ý thì đến đây phải nói là đã khá sát nguyên văn. Ngữ khí cũng
rõ ràng là cái giọng bực tức, đúng như nỗi bực dọc trong nguyên ý của tác giả.
Khổ một nỗi, bài thơ nguyên tác còn có một thủ pháp chơi chữ mà bản dịch chưa lột
được: “Túc Vinh” được dùng đối trọng với “mông nhục” như một phép tu từ mang
hàm ý chế giễu đối phương và tự trào về cảnh ngộ. Không thể chấp nhận sự bất lực
về mặt mỹ cảm của bản dịch, Nam Trân đã quyết dịch lại lần thứ tư, tức là bản
mà ta đọc hiện nay, khẩu khí điềm đạm hơn, lời thơ là lời nói thường mà vẫn
không bỏ rơi chuẩn mực tao nhã, mặc dầu tôi đoán trong thâm tâm dịch giả vẫn
chưa thật toại nguyện với câu cuối: hai chữ “hy sinh” đã phải để nguyên để hiệp
vần chứ lẽ ra thì cần dịch thành chữ “mất sạch” (bạch hy sinh) cho người đọc
không hiểu lầm với nghĩa hy sinh trong tiếng Việt:
Túc Vinh mà để ta mang nhục,
Cố ý làm cho chậm bước mình.
Bịa đặt vu ta là gián điệp,
Không dưng danh dự phải hy sinh.
Xin dẫn thêm một trường hợp khác, bài thơ nổi tiếng giàu chất thơ mà nhiều
người thuộc: bài Vãn (Chiều
tối):
Vãn xan ngật liễu nhật tây trầm,
Xứ xứ sơn ca dữ nhạc âm.
U ám Tĩnh Tây cấm bế thất,
Hốt thành mỹ thuật tiểu hàn lâm.
Ban đầu, Nam Trân dịch thành một bài thơ lục bát:
Cơm xong, bóng ngả về tây,
Lời ca tiếng nhạc, đó đây vang lừng.
Ngục Tĩnh Tây tối mịt mùng,
Bỗng thành nhạc viện trong vùng hàn
lâm.
Lời dịch không phải không uyển chuyển, duy câu cuối thêm vào chữ “vùng” thành
ra không sáng nghĩa. “Bỗng thành nhạc viện trong vùng hàn lâm” thì hàn lâm bị
hiểu như một địa phương có nhạc viện chứ không phải là khái niệm bổ nghĩa cho
nhạc viện như nguyên tác. Nam Trân gắng dịch lại lần thứ hai:
Ăn xong bóng ngả non đoài,
Lời ca tiếng nhạc khắp nơi vui hòa.
Tĩnh Tây ngục tối cũng là,
Một trường mỹ thuật trong tòa hàn lâm.
Câu cuối bài thơ tuy có sát hơn song hai chữ “vui hòa” hình như chưa phải
đã đúng ý của tác giả. Tác giả nói khắp nơi rộn lên tiếng đàn ca và tiếng nhạc
nhưng không hề nói đó là hòa âm của tiếng reo vui. Nhà tù làm sao có thể “vui
hòa” được? Thêm nữa, với hai câu ba và bốn thì hiện tượng đột biến từ nhà ngục
trở thành nhạc viện trong cảm giác của chủ thể thẩm mỹ là người tù đã bị bỏ mất.
Nam Trân kiên trì dịch lại lần thứ ba và lần này đổi sang thơ Đường luật:
Cơm xong bóng đã gác đầu non,
Sáo thổi đàn ca bỗng dập dồn.
Nhà ngục Tĩnh Tây đang tối mịt,
Biến thành nhạc viện giữa sơn thôn.
Cả bài dịch mới nghe rất thanh thoát và nội dung không có gì đi lạc
nguyên văn. Nhưng đọc kỹ sẽ nhận ra câu cuối chưa ổn, vì cái ý “sơn thôn” là ý người
dịch thêm vào, “sơn thôn” thay cho “tiểu hàn lâm” càng có phần gượng. Dịch giả
đã bận tâm đến chỗ trái khoáy này và cố gắng dịch lại lần thứ tư:
Cơm xong bóng đã xuống đầu non,
Đây đó hò ca lẫn sáo đàn,
Nhà ngục Tĩnh Tây mờ mịt tối,
Bỗng thành một nhạc viện con con.
Trong 4 câu dịch ở lần thứ tư đã thấy lấp ló một câu dịch chuẩn của lần
cuối cùng. Dĩ nhiên, nhìn tổng thể cả bốn câu thì vẫn chưa khá hơn lần trước, trái
lại, cách nối vần non-đàn-con nghe hơi ép mà ý muốn lột tả rõ nghĩa ở câu thứ tư vẫn
thất bại, bởi “nhạc viện con con” chỉ mới diễn đạt được chữ “tiểu”, còn chữ
“hàn lâm” quan trọng hơn nhiều lại không thể đưa vào. Cả bốn dị bản khác nhau ở
trên đã giúp Nam Trân nghiền ngẫm - hẳn là nghiền ngẫm rất dữ - để ông tiến tới
một bước đột xuất: tạo nên bản dịch thứ năm, một bản dịch thỏa mãn cả tín và
nhã, chính là bản cuối cùng mà người đọc được thưởng thức từ mấy chục năm nay:
Cơm xong bóng đã xuống trầm trầm,
Vang tiếng đàn ca, rộn tiếng ngâm.
Nhà ngục Tĩnh Tây mờ mịt tối,
Bỗng thành nhạc quán viện hàn lâm.
Toàn bộ bản thảo phần dịch Nhật
ký trong tù còn lưu lại của Nam Trân theo tôi là một tư liệu rất
quý, nó không những giúp người nghiên cứu tái lập lại từng bước tiến trình chuyển
đổi một tác phẩm quan trọng như Ngục
trung nhật ký từ chữ Hán sang tiếng Việt mà căn cứ vào đó, còn có
thể giúp tìm hiểu con đường vận động có tính quy luật trong phương thức tư duy
thơ hay là trong nung nấu cảm xúc và lựa chọn ngôn từ của một dịch giả vào hàng
Nam Trân khi đối diện với một tác phẩm như Nhật ký trong tù. Thú thật, đọc vào những thếp giấy mang thủ
bút của chính Nam Trân viết bằng nhiều thứ mực khác nhau, tôi vừa cảm thấy bồi
hồi như được gặp lại Nam Trân những ngày ông làm việc căng thẳng nhất, lại vừa
có gì như hơi tiếc, trước không ít bản dịch cũng đáng gọi là mỹ mãn mà ông đành
tâm bỏ đi - giá ông cứ giữ chúng làm những version khác cho bản dịch Nhật ký trong tù bên cạnh những
version đã được công bố để bạn đọc lựa chọn thì có khi vẫn được công chúng hết
sức hoan nghênh. Chẳng hạn, cả hai bài Cước áp (Cái cùm). Bài I:
Tranh ninh ngã khẩu tự hung thần,
Vãn vãn trương khai bả cước thôn.
Các nhân bị thôn liễu hữu cước,
Chỉ thặng tả cước năng khuất thân.
Bản dịch mà ta thuộc lâu nay là bản đã công bố:
Dữ tựa hung thần miệng chực nhai,
Đêm đêm há hốc nuốt chân người.
Mỗi người bị nuốt chân bên phải,
Co duỗi còn chân bên trái thôi.
Bản dịch rất thành công, vừa có sức tạo hình vừa chuyển tải trọn ý. Thế nhưng
trong các xấp bản thảo đã nói còn có một bản dịch nữa, tuy có thiếu đi một chi
tiết nhỏ không đáng kể là chữ “trái” để đối với chữ “phải”, tôi vẫn nghĩ là một
bản dịch sắc sảo, Nam Trân đã dịch trong cảm hứng nhân cách hóa cái cùm hay hơn
hẳn:
Đêm đêm dữ tợn tựa hung thần,
Há hốc mồm ra ngoạp miếng ăn.
Chân phải mỗi người đều bị nuốt,
Chỉ còn co duỗi một bên chân.
Bài II:
Thế gian cánh hữu ly kỳ sự,
Nhân mẫn tranh tiên thượng cước kiềm.
Nhân vị hữu kiềm tài đắc thụy,
Vô kiềm, một xứ khả an miên.
Khỏi phải nói bản dịch Nam Trân đã cho công bố là bản có giá trị, lời dứt
mà ngân vang còn đọng lại:
Nghĩ việc trên đời kỳ lạ thật,
Cùm chân sau trước cũng tranh nhau.
Được cùm chân mới yên bề ngủ,
Không được cùm chân biết ngủ đâu.
Dù sao, lâu nay tôi vẫn gợn một chút tiếc rẻ, ở chỗ chất “huy-mua” của
bài dịch chưa rõ lắm, giọng thơ về cuối nghe như một lời than thở. Thú vị làm
sao trong các xấp bản thảo, cùng với bài I, version khác của bài dịch II cũng rất
đặc sắc, sử dụng chữ “ngủ” và chữ “ngơi” thật đúng chỗ làm cho tính châm biếm nổi
trội lên:
Lại còn có việc lạ trên đời:
Tranh để cùm chân trước mọi người.
Vì có cùm chân thì được ngủ,
Không cùm, chẳng có chỗ nào ngơi.
Xin nhắc lại, trong các thếp bản thảo thủ bút của Nam Trân hiện vẫn còn
ít nhiều bản dịch vào loại tương tự chưa được công bố. Cũng do đọc được tập bản
thảo lưu lại đó từ năm 1977, khi được ủy nhiệm dịch bổ sung 20 bài còn chưa in
trong tập Nhật ký trong tù,
chúng tôi đã tìm ra 3 bài của Nam Trân dịch sẵn trong số 20 bài này để đưa vào
bản dịch xuất bản năm 1983 và bản dịch trọn vẹn năm 1990: các bài Nạn hữu Mạc mỗ (Bạn tù họ Mạc), Long An Lưu sở trưởng (Sở trưởng
Long An họ Lưu), Nhân đỗ ngã
(Nhân lúc đói bụng). Chắc chắn rồi đây trong những lần xuất bản tới, nếu đào xới
sâu vào tập bản thảo, các nhà nghiên cứu của Viện Văn học còn có thể bổ sung để
mở rộng thêm diện mạo bản dịch Nhật
ký trong tù của Nam Trân.
(còn nữa)
Chú thích:
([1][1]) Nhà thơ Khương Hữu Dụng trong lời phát biểu tại cuộc họp cộng tác viên
của Viện Văn học vào năm 1978 để góp ý về bản dịch Nhật ký trong tù năm 1960 khẳng định Nam Trân đã thực hiện
công việc chỉ trong vòng một tháng, từ 10 tháng 3 năm 1960 đến 10 tháng 4 năm
1960 là hoàn tất, sau khi ông Dụng về Viện 5 ngày (xem thêm chú thích (3)). Có
lẽ ông Dụng đã nhớ nhầm. Nhật ký làm việc của Nam Trân hiện còn lưu ghi những
việc trong tháng giêng năm 1960 không hề có việc dịch hay chữa Nhật ký trong tù nữa mà chỉ thuần
là việc thuộc khâu xuất bản. Ngày cuối cùng kết thúc công việc về Nhật ký trong tù là 8 tháng 2
năm 1960, Nam Trân làm việc suốt một buổi chiều với ông Tố Hữu, quyết định đưa
thêm bài Mới ra tù tập leo núi vào
cuối tập và lấy lại bài Chiết tự
trước đã bỏ ra ngoài. Như thế, ngày này, Tố Hữu đã duyệt xong bản dịch và trực
tiếp trao đổi lần cuối với Nam Trân. Ngoài ra, ông Dụng đánh giá cao công lao
khởi đầu của bản dịch của Văn Trực-Văn Phụng. Chúng tôi sẽ đề cập vấn đề này ở
phần dưới. Nam Trân và bản dịch Nhật ký trong tù (Tiếp theo kỳ trước)
Điều thứ
ba. Cũng trong tập hồ sơ dịch Nhật ký trong tù lần thứ nhất, có một hiện tượng
đã trở thành dư luận ngấm ngầm từ nhiều năm qua - hiện tượng bản “lược dịch” của
Văn Trực và Văn Phụng. Nam Trân có sử dụng bản dịch này không và sử dụng đến chừng
mực nào? Trong bài Những điều chưa biết về “Ngục trung nhật ký” cũng như quá
trình dịch thơ “Ngục trung nhật ký” bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh của ông Trần
Đắc Thọ in trong cuốn sách Hồ Chí Minh - thơ toàn tập do Trung tâm Quốc học
biên soạn khoảng dăm năm lại đây, ông Thọ có viết rằng ngày 25 tháng 2 năm
1998, ông đã tìm gặp ông Tố Hữu để hỏi lại việc dịch Nhật ký trong tù và một số
việc liên quan đến thơ Hồ Chí Minh. Ông được Tố Hữu trả lời 8 điểm, trong đó có
3 điểm đụng chạm tới điều chúng ta đang quan tâm: “1. Xác nhận đồng chí Phạm
Văn Bình là người đầu tiên phát hiện tập Ngục trung nhật ký ở kho lưu trữ của
Trung ương Đảng, tổ chức phiên âm dịch nghĩa và dịch thơ; 2. Đồng chí Tố Hữu đã
giao cho đồng chí Đặng Thai Mai và đồng chí Hoài Thanh, Viện trưởng và Viện phó
Viện Văn học chịu trách nhiệm xem lại bản dịch của đồng chí Bình để kịp phát
hành sách vào dịp 19-5-1960; 3. Đồng chí Nam Trân cùng với đồng chí Phạm Văn
Bình đã cùng nhau biên tập lại tập Nhật ký trong tù đã được dịch nghĩa và dịch
thơ” (1). Không rõ ông Trần Đắc Thọ tóm tắt ý kiến ông Tố Hữu trung thành đến
đâu nhưng ví thử đúng là lời ông Tố Hữu phát biểu, thì ở tầm lãnh đạo trên cao,
ông Tố Hữu đã không thể nào nắm sát sườn mọi việc diễn ra từ dưới cơ sở. Đối chiếu
với thực tế ở Viện Văn học trong những ngày ấy, có vài điểm chưa thật khớp lắm:
ông Phạm Văn Bình không hề cùng với ông Nam Trân biên tập lại bản dịch Nhật ký
trong tù đã được nhóm ông Bình dịch (không thấy có nét chữ của ông Bình trong
các xấp bản thảo), cũng không hề có chuyện hai người làm việc chung với nhau,
mà như tôi đã hỏi nhiều người kỳ cựu ở Viện và cũng có gặp gỡ cả ông Phạm Văn
Bình tại Bảo tàng Hồ Chí Minh năm 1990, nhân cuộc họp do ông Lữ Huy Nguyên,
Giám đốc Nhà xuất bản Văn học tổ chức nhằm giới thiệu bản dịch Nhật ký trong tù
trọn vẹn bấy giờ vừa ra mắt, thì ông Bình chỉ trao một bản chép tay bản “lược dịch”
Nhật ký trong tù cho Viện Văn học (bản chép tay ấy hiện trong hồ sơ còn lưu giữ,
không có phần dịch nghĩa như ông Trần Đắc Thọ dẫn lời ông Tố Hữu; tôi nói không
có nét chữ của ông Bình trong các xấp bản thảo là căn cứ vào bản chép tay này),
còn lại sau đó là việc duy nhất của nhà thơ Nam Trân chứ ông Bình không còn biết
gì hơn. Phải nói, công việc dịch Nhật ký trong tù Nam Trân đã gánh vác hoàn
toàn. Cũng trong bài viết của ông Trần Đắc Thọ còn có một đoạn: “Vào dịp kỷ niệm
sinh nhật Bác Hồ năm ấy (tức năm 1960), cuốn sách được phát hành rộng rãi. Đồng
chí Bình không thấy tên mình được nhắc nhở trong cuốn sách nên có hỏi đồng chí
Nam Trân. Đồng chí Nam Trân nói có lẽ sơ suất tại Nhà xuất bản. Công việc chấm
dứt ở đó với nỗi niềm không mấy vui của đồng chí Phạm Văn Bình”(2). Chuyện này
anh Đào Thái Tôn đã có phân tích, tuy vậy, tôi cũng muốn nói thêm: trong câu
nói có phần mặc cảm của ông Phạm Văn Bình vừa được trích dẫn (phải chăng nói
trong một vài năm cuối đời?), ông đã có sự nhầm lẫn đáng tiếc về thời điểm. Giản
dị là vào năm 1960, bản dịch Nhật ký trong tù không hề đề tên người dịch, ông
Bình làm sao có thể băn khoăn thắc mắc khi trong sách cũng không có tên Nam
Trân. Thời ấy là thế, mọi công trình đều lấy danh nghĩa tập thể, kể cả các công
trình biên soạn, như cuốn Mấy vấn đề về sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi in năm
1963 do tôi làm. Chưa ai có ý thức khăng khăng “bảo vệ” bản quyền như khoảng
mươi năm lại đây đã biến thành cơn sốt. Huống nữa, việc dịch Nhật ký trong tù
là do chỉ thị của cấp trên, dịch xong coi như đã đóng góp được chút công sức của
mình cho cách mạng. Mà đặt tên người dịch dưới một tập thơ của Hồ Chí Minh thì
lại còn mang tâm lý bất kính đối với lãnh tụ, tâm lý cá thể và tâm lý của cả cộng
đồng. Ngay đến năm 1983, trong bản dịch bổ sung và chỉnh lý do nhóm chúng tôi
làm tiếp, khi in ra, tên người dịch cũng vẫn để trống. Chỉ đến bản dịch đầy đủ
134 bài năm 1990, chúng tôi mới dám đề tên Nam Trân như dịch giả chính của tác
phẩm, và tên bốn người khác đặt phía dưới như một nhóm chỉnh lý bổ sung. Chúng
tôi cũng không quên nhắc đến bản dịch đi đầu của Văn Trực và Văn Phụng. Tôi đồ
rằng một vài người nào đấy quá nhạy cảm về cái danh được dịch thơ của Hồ Chủ tịch
đã đem tâm sự mình gán cho ông Bình.
Nhà thơ Nam
Trân tất nhiên có thừa hưởng một phần thành quả bản dịch của Văn Trực và Văn Phụng.
Ông thừa hưởng vì ông quan niệm sản phẩm của Văn Trực và Văn Phụng do trên chuyển
xuống cho mình tham khảo để mình dịch Nhật ký trong tù cho kịp thời hạn thì tốt
nhất là dựa vào bản dịch đó mà nâng lên. Họa có là người điên mới tự ý bày ra dịch
lại trước một nhiệm vụ cấp bách không thể không làm, lại là một việc làm mang
tính chất quan phương, do cơ quan nhà nước chỉ đạo. Nam Trân tuyệt không có lỗi
gì khi chữa vào bản dịch Văn Trực - Văn Phụng. Và chính chúng tôi cũng vậy. Khi
nhận lời Viện trưởng Hoàng Trung Thông sung vào Tiểu ban chỉnh lý và dịch bổ
sung Nhật ký trong tù (gồm 4 người) vào cuối năm 1977, chúng tôi có nghe ông dặn:
đây là theo tinh thần nhà thơ Tố Hữu(3), trước áp lực của dư luận ngày càng
tăng, đòi hỏi phải xem xét lại bản dịch năm 1960. Tiếp theo, trong đầu năm
1978, ông cho tổ chức một cuộc họp cộng tác viên rộng rãi lấy ý kiến các bậc
túc nho, các dịch giả uy tín và các nhà nghiên cứu về bản dịch này(4), đồng thời
cũng yêu cầu Tiểu ban chỉnh lý bổ sung, rà soát lại mọi đề xuất lớn nhỏ trên số
lớn báo chí trong vòng 17 năm bản dịch đã lưu hành, qua đấy cố gắng chữa một vài
chữ hoặc một đôi câu trong một ít trường hợp bị coi là “nổi cộm” nhất, còn thì
bất đắc dĩ lắm mới phải dịch lại một bài khác. May mắn là khi đọc kỹ các bài
phê bình hầu như không lúc nào thiếu vắng tính cho đến lúc đó, chúng tôi kịp nhận
ra nhiều kiến nghị lắm khi rất “cắc cớ”, thường cứ đem tư tưởng của Hồ Chí Minh
ra mà bắt bẻ bản dịch “chưa đến tầm”, hoặc cứ so chiếu từng chữ của nguyên tác
với từng chữ của bản dịch mà nói bản dịch chưa đạt, không cần biết cái khó của
người dịch thơ là phải thoát sự trói buộc của câu chữ mới chuyển tải được hồn
thơ của nguyên văn. Vì thế, chúng tôi đã biết tỉnh táo đối thoại với nhiều bài góp
ý chủ quan, nhiều bản sửa chữa liên tiếp gửi đến, hoặc nhiều người đến thẳng Viện
cho xin bổ sung vào bản dịch (cá biệt còn gây náo động), qua nhiều buổi làm việc
tập thể thông tầm từ sáng đến chiều có sự tham gia nhiệt tình của Hoàng Trung
Thông. Và cho đến bản dịch trọn vẹn công bố năm 1990 và cả đến nay, số lượng
bài dịch của Nam Trân vẫn chiếm phần tuyệt đối: 97 bài của ông được giữ lại, 8
bài ghi danh cho Văn Trực - Văn Phụng, chỉ có 9 bài là thay mới. Chứng tỏ uy
tín dịch thuật của Nam Trân qua mọi thử thách vẫn không chút lung lay, mặc dù đến
năm 1991, một bản dịch mới Nhật ký trong tù do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội tập
hợp một số người làm lại (mà không hỏi ý kiến của Viện Văn học) đã ra mắt, tự ý
bỏ đi ba phần tư phần thơ dịch của Nam Trân, lại sửa lại nhiều bài dịch thay
tên Nam Trân bằng tên người khác, để cho ra một bản dịch pha tạp. Nhưng với thời
gian, bản dịch này đã bị lãng quên.
Trở lại với
Văn Trực và Văn Phụng, khi đối chiếu bản “lược dịch” của hai ông với bản in Nhật
ký trong tù năm 1960, chúng tôi tìm ra 8 bài có bóng dáng rõ nét thơ dịch của
hai ông nên đã trả lại tên cho hai ông. Sự thực, giờ đây so đi chiếu lại chữ và
chữ kỹ hơn, tôi còn tìm thấy thêm 8 bài cũng nên đề tên hai ông là dịch giả bên
cạnh tên Nam Trân là người chỉnh sửa (các bài Đề từ, Tù lương, Lại sang, Tặng
Tiểu hầu (Hải), Tháp hỏa xa vãng Lai Tân, Đáo Liễu Châu, Khán Thiên gia thi hữu
cảm). Vậy nhưng, cũng phải thành thật mà nói, từ thơ của hai ông trong bản “lược
dịch” đến bản dịch đã được công bố của Nam Trân là cả một khoảng cách đáng kể.
Thơ của các ông gồ ghề trúc trắc, nói nôm na là bẻ chữ thành thơ. Có khi Nam
Trân chỉ thay một hai chữ, nhưng chính là đã thổi hồn thơ vào cả mảng từ ngữ
làm cho nó đổi hẳn, không còn là bài văn “bẻ vần”. Xin nêu một thí dụ: Bài Đề từ
của tập thơ, hai ông dịch:
Thân thể
ở trong ngục,
Tinh thần
ở ngoài lao,
Muốn
nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần
phải càng cao.
Bài dịch là
một cách nói vần vè mà chất văn xuôi vẫn chưa khắc phục được. Nam Trân chỉ thay
một chữ “lao” cho chữ “ngục” và đổi chữ “phải” ra sau chữ “càng” thế là nhịp
thơ êm ả hẳn:
Thân thể
ở trong lao,
Tinh thần
ở ngoài lao.
Muốn
nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần
càng phải cao.
Hay như bài
Học đánh cờ, nguyên văn của hai ông có khác với bản đã công bố. Hai ông dịch:
Ngồi buồn
ta học đánh cờ chơi,
Thiên
binh vạn mã đuổi tơi bời.
Tấn
công, thoái thủ cho mau lẹ,
Ai có
tài cao được thắng người.
Nghĩ kỹ,
trông xa lại quyết tâm,
Đã quyết
không ngừng thế tấn công.
Trệch
hướng hai xe mà vô dụng,
Gặp thời
một tốt cũng thành công.
Vốn trước
hai bên ngang lực lượng,
Về sau
bên bại, một bên thành.
Thế
công, thế thủ không sơ suất,
Đại tướng
anh hùng mới xứng danh.
Nam Trân đã
kỳ công gọt giũa những từ còn vụng hoặc xa nghĩa như “ngồi buồn” (nguyên văn là
bế tọa(5)), “tơi bời” (nguyên văn là cộng khu trì), “ai có tài cao” (nguyên văn
là cao tài tật túc), “quyết tâm” (nguyên văn là tâm ưng tế), “trệch hướng”
(nguyên văn là thác lộ) “bên bại bên thành” (nguyên văn là thắng lợi... thuộc
nhất nhân), và bài thơ được nhà thơ trau chuốt lại thoạt nhìn không khác mấy
bài thơ dịch gốc, kỳ thực đọc lên thần tình khác hẳn:
Tù túng
đem cờ học đánh chơi,
Thiên
binh vạn mã đuổi nhau hoài.
Tấn công,
thoái thủ nên thần tốc,
Chân lẹ,
tài cao ắt thắng người.
Phải
nhìn cho rộng, suy cho kỹ,
Kiên
quyết không ngừng thế tấn công.
Lạc nước,
hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời,
một tốt cũng thành công.
Vốn trước
hai bên ngang thế lực,
Mà sau
thắng lợi một bên giành,
Tấn
công, phòng thủ không sơ hở,
Đại tướng
anh hùng mới xứng danh.
Một bài
khác là bài Khán Thiên gia thi hữu cảm, lời dịch của Văn Trực - Văn Phụng xét ở
cấp độ câu chữ đúng là không xa bản mà Nam Trân đã đưa in:
Thơ cổ
yêu thiên nhiên cảnh đẹp,
Tả gió
trăng hoa, tả núi sông.
Thơ nay
cần tinh thần chiến đấu,
Nhà thơ
cũng phải biết xung phong.
Tuy vậy, chớ
thấy có chỗ gần nhau mà vội tưởng lầm. Nam Trân chỉ đảo vị trí mấy chữ ở câu đầu,
bổ sung hai chữ ở câu hai và thay mấy chữ ở câu ba, song lại là mấy chữ làm nên
cái thần của bài thơ mà Văn Trực - Văn Phụng bỏ đi vì không hiểu đấy là “nhãn tự”:
“Hiện đại thi trung ưng hữu thiết”. Giữa bản gốc của Văn Trực - Văn Phụng và bản
chỉnh lý của Nam Trân do thế có sự cách nhau một đẳng cấp nghệ thuật:
Thơ xưa
yêu cảnh thiên nhiên đẹp,
Mây,
gió, trăng, hoa, tuyết, núi sông.
Nay ở
trong thơ nên có thép,
Nhà thơ
cũng phải biết xung phong.
Ở đây nữa,
tập hồ sơ hiện đang lưu của Ban Cổ cận đại Viện Văn học về lần dịch đầu Ngục
trung nhật ký lại là một cơ sở tư liệu rất quý giá cho những ai muốn đi sâu
nghiên cứu quy trình chữa thơ, nâng cấp thơ trong một luận án bàn về dịch văn học.
Nam Trân là kiểu mẫu của một dịch giả không chữa thơ ẩu và không chữa “lợn lành
thành lợn què” như một số trường hợp hiện đang bày ra trên thị trường văn
chương từ Nam
đến Bắc.
Điều cuối
cùng chúng tôi muốn đề cập là một vài suy nghĩ tổng quát về đóng góp nghệ thuật
dịch Nhật ký trong tù của Nam Trân. Như đã nói, rất nhiều bài dịch của Nam Trân
được bạn đọc Việt Nam nhập tâm thưởng thức, cũng được sách giáo khoa trích giảng
và đông đảo học sinh “đưa vào bộ nhớ” đã ngót năm chục năm. Nói về thành công của
từng bài dịch cụ thể thì khó lòng nói xuể. Chỉ có thể thông qua cái cụ thể mà cố
gắng rút ra cái chung, nó làm nên đặc điểm thống nhất của một phong cách dịch
thơ. Với Nam Trân, ấn tượng nổi đậm hơn cả là âm hưởng Đường luật mà ông đặc biệt
tôn trọng đã tạo nên hương vị riêng cho bản dịch Nhật ký trong tù. Đành rằng
nguyên tác Ngục trung nhật ký vốn rất giàu ý vị Đường thi, nhiều bài thơ trong
tập đã sử dụng luật Đường và điển cố thơ Đường nhuần nhị, song đáng lạ là cũng
có đến ba mươi bài bỏ qua niêm luật thơ Đường (Tảo II, Tù lương, Cước áp I, Học
dịch kỳ I, Phân thủy, Đổ, Đổ phạm, Bào Hương cẩu nhục, Tân Dương ngục trung
hài, Ký Nê Lỗ I, Ngục trung sinh hoạt, Mạc ban trưởng, Thiên Giang ngục, Tha tưởng
đào, Lai Tân, Tứ cá nguyệt liễu, Bệnh trọng, ?!, ?, Đáo đệ tứ chiến khu chính
trị bộ, Vãn cảnh, Ngũ khoa trưởng Hoàng khoa viên, Lương Hoa Thịnh tướng quân
thăng nhậm Phó tư lệnh, Tặng Tiểu hầu (Hải), Trần khoa viên lai thám, và cả 5 bài
ngũ ngôn đều dùng thể cổ phong). Có những bài vận dụng cú pháp bạch thoại với
những trợ từ “đích”, “giá”, “cá”, “bả”, “giá dạng”, “khả thuyết”... không có
trong thơ cổ. Có những trợ từ văn xuôi được chuyển vào thơ: “sở”, “dã”, “tài”,
“sở dĩ”, “hứa đa”, “đương nhiên”. Có những từ ngữ rất hiện đại và giàu chất thời
sự: “kiên quyết”, “tấn công”, “thắng lợi”, “công thủ”, “vĩ đại”, “quyết tâm”,
“khẩn trương”, “vệ sinh”, “đương cục”, “quân cảnh”, “hoàn cầu”, “tiền tiến”,
“khổ cán”, “ngạnh cán”, “kiệm cần”, “dũng cảm”, “liêm chính”, “lãnh tụ”, “tổ quốc”,
“xung phong”. Có chữ “ma đăng” phiên âm từ “modern” của tiếng Anh, và các chữ
“NAZI”, “oa oa ooa” viết thẳng tiếng Việt trong nguyên văn. Rồi lại còn có cả
những từ grotesque như “xí khanh” (nhà xí), “xuất cung” (đi tiêu)... Về tiết tấu
thì nhiều câu ở nhiều bài đảo hẳn nhịp 4/3 của thơ Đường thành những nhịp 1, 2,
3, 4 rất linh động (“Khốn nạn/ thị/ nhĩ ngọc/ thành thiên” - Văn thung mễ thanh;
“Tất cánh/ tỷ/ đồ bộ/ phiêu lượng” - Tháp hỏa xa vãng Lai Tân; “Trưởng quan bộ/
chỉ/ cách lý hử” - Cửu bất đệ giải; “Thí vấn/ dư/ sở phạm/ hà tội?/ Tội/ tại/ vị
dân tộc/ tận trung”- Đáo Đệ tứ chiến khu Chính trị bộ; “Nhi kim/ nhĩ/ hựu/ khái
thành lao” - Dương Đào bệnh trọng; “Thập/ thập nhất/ hoặc/ thập nhị thì” - Nhân
đỗ ngã; “Thi gia/ dã/ yếu/ hội xung phong” - Khán Thiên gia thi hữu cảm...). Có
thể nhận xét là trong Ngục trung nhật ký, đối với những bài thể hiện cái “tôi”
tâm trạng, bộc lộ thế giới bên trong của chủ thể, Hồ Chí Minh thường sử dụng mã
thơ Đường hoàn hảo, đôi lúc xuất thần, còn đối với những bài chỉ có ý nghĩa
thông báo, ghi chép nhật ký, ông lại không ngại phá vỡ mọi quy tắc thơ Hán cổ
điển mà ta tạm gọi là phản mã thơ Đường. Khi chuyển Ngục trung nhật ký ra thơ
tiếng Việt chắc Nam Trân có tính đến điều này. Nhiều dị bản dùng đủ các thể
khác nhau, 5 chữ, 7 chữ, lục bát... để dịch đi dịch lại một bài thơ, chứng tỏ
ông đã đắn đo suy tính hết mọi cách. Cuối cùng ông vẫn đi đến một quyết định dứt
khoát: nhất loạt dịch đúng Đường luật. Ví dụ bài Đổ gồm 4 câu có đến 3 câu thất
luật và thất niêm trong nguyên tác: “Ngục lý đổ bác khả công khai/ Bị lạp đổ phạm
thường ta hối/ Hà bất tiên đáo giá lý lai” được dịch thành một bài thơ hoàn
toàn đúng luật: “Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội/ Trong tù đánh bạc được công
khai/ Bị tù con bạc ăn năn mãi/ Sao trước không vô quách chốn này?”; bài Tha tưởng
đào cũng vậy, câu cuối cùng của nguyên tác đã thoát hẳn ra ngoài niêm luật: “Khả
tích tha bào bán lý hử/ Hựu bị cảnh binh tróc hồi lai”, thế mà người dịch không
những giữ nguyên ý và tứ, lại đưa nó trở lại trong vòng niêm luật một cách tài
tình: “Tự do anh ấy hằng mong mỏi/ Liều mạng đâm nhào nhảy xuống xe/ Rủi quá chạy
đâu chừng nửa dặm/ Bị ngay cảnh sát bắt lôi về”. Về nhịp, hết thảy những chỗ
trúc trắc trong nhịp thơ của nguyên tác cũng đều được Nam Trân biến thành suôn
sẻ: “Khốn nạn/ thị/ nhĩ ngọc/ thành thiên” → “Gian nan rèn luyện mới thành
công”; “Trưởng quan bộ/ chỉ/ cách lý hử” → “Dinh quan chỉ cách đây chừng dặm”;
“Thí vấn/ dư/ sở phạm/ hà tội?/ Tội/ tại/ vị dân tộc/ tận trung” → “Phạm
tội gì đây? Ta thử hỏi/ Tội trung với nước với dân à?” v.v...
Có người
cho rằng không nên làm cho bản dịch Nhật ký trong tù “hay” hơn nguyên tác. Có lẽ
vấn đề không phải ở chỗ ấy. Vấn đề là Ngục trung nhật ký trước hết là một cuốn
nhật ký, Hồ Chí Minh dành để viết cho mình. Có những đầu đề chỉ là một dấu hỏi
hoặc dấu chấm than, tức chỉ có tính chất ký hiệu riêng cho một người là tác giả
trong khi “đối diện đàm tâm”. Việc tác giả đôi lúc thoát khỏi niêm luật, dùng
ngữ điệu văn xuôi, cũng là do tính chất nhật ký đòi hỏi. Nhưng đưa ra cho đông
đảo bạn đọc thưởng thức cả một tập thơ tù của Hồ Chủ tịch thì không thể không
tính toán đến người tiếp nhận. Người tiếp nhận cách đây 50 năm và nay cũng thế,
vẫn là đại bộ phận quần chúng nhân dân có học vấn bậc trung, chưa quen với các
lối thơ cách tân, thơ văn xuôi, nhưng lại rất quen thuộc và hứng thú với thơ Đường
luật mà vô số câu lạc bộ thơ Đường sống giai giẳng ở các phường phố, huyện xã từ
bao nhiêu năm nay là bằng chứng khó chối cãi. Trong một bối cảnh như thế, việc
Nam Trân chuyển “phản mã thơ Đường” của Ngục trung nhật ký thành “giải phản mã
thơ Đường” là điều hợp lý, và thành công của bản dịch năm 1960 chứng tỏ ông đã
đúng. Ông không chỉ là một dịch giả thiện nghệ mà còn là người nắm vững tâm lý
tiếp nhận của công chúng trong khi dịch thơ Hồ Chí Minh.
Một lý do
khác đưa bản dịch Nhật ký trong tù năm 1960 đến những kết quả ngoài sức mong đợi,
theo chúng tôi còn là ở chỗ, đối với tác giả Hồ Chí Minh, Nam Trân thủy chung
có niềm yêu kính chân thành. Ông nhìn thấy chỗ lớn lao của lãnh tụ và biết dùng
nguồn ánh sáng tâm cảm ấy soi vào từng lời dịch của mình. Sự đồng nhất hóa giữa
người dịch và người thơ xẩy ra trong tâm hồn ông là điều tự nhiên không cần gắng
sức. Hồn thơ của người viết lần lượt chuyển ra đầu ngọn bút của Nam Trân chính
là vì thế. Còn nhớ năm 1967, vào khoảng thượng tuần tháng 5, Nam Trân rời lớp đại
học Hán học của Viện Văn học về Hà Nội chữa bệnh và từ đó không bao giờ trở lại.
Buổi sáng ông ra xe, đi qua nhà ăn tập thể, thấy vợ chồng tôi đang ăn bánh đúc,
ông ghé lại, nhận lời mời, ăn một miếng, rồi bảo tôi đưa giấy và bút ra để ông
chép thơ. Ông đã chép tặng tôi hai bài thơ thất ngôn bát cú chữ Hán cùng một đầu
đề (kỳ nhất, kỳ nhị) do mình vừa sáng tác cho kịp mừng ngày sinh nhật Hồ Chủ tịch
khoảng hơn một tuần sau. Hai bài thơ chưa kịp công bố thì ông đã vĩnh viễn nằm
xuống. Mấy chục năm nay tôi vẫn giữ tờ giấy đó trong số các tài liệu ghi chép
thời đi học. Tôi đinh ninh sẽ được gửi đến bạn đọc một dịp thuận tiện sau này.
Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nam Trân, tôi đã cố công lục lại, nhưng thật đau
lòng, sau nhiều phen di chuyển, hai lần từ nơi sơ tán về Hà Nội, rồi thêm hai
ba lần chuyển nhà, phong bì đựng hai bài thơ đã thất lạc đâu mất tìm chưa thấy.
Dù vậy, tôi vẫn còn nhớ được đầy đủ bài đầu, nay xin phiên âm và lạm trình bạn
đọc bản dịch ra tiếng Việt của tôi để tạ lỗi với hương hồn ông, sau nữa cũng để
chúng ta cùng ngẫm nghĩ thêm về tấm lòng tri ngộ của dịch giả Ngục trung nhật
ký đối với người thơ - Lãnh tụ Hồ Chí Minh:
門 前 喜 鵲 報 文 人。
伯 伯 方 今 七 七 春。
前 線 雷 鳴 花 炮 點。
後 方 旗 蔽 大 家 新。
夜 聞 伯 伯 聲 懮 慮。
朝 想 家 家 曲 蹇 屯。
忽 見 一 生 閒 雅 甚。
呼 兒 帶 紙 以 敲 文。
Môn tiền
hỷ thước báo văn nhân,
Bá bá
phương kim thất thất xuân.
Tiền
tuyến lôi minh, hoa pháo điểm,
Hậu
phương kỳ tế, đại gia tân.
Dạ văn
bá bá thanh ưu lự,
Triêu
tưởng gia gia khúc kiển truân.
Hốt kiến
nhất sinh nhàn nhã thậm,
Hô nhi
đới chỉ dĩ xao văn.
Cửa
ngoài chim khách gọi văn nhân:
Mừng
Bác Hồ tròn bảy bảy xuân.
Tiền
tuyến pháo hoa, ran tiếng sấm,
Hậu
phương cờ rợp, nức lòng dân.
Đêm
nghe tiếng Bác còn thao thức,
Ngày ngẫm
muôn nhà vẫn khó khăn
Bỗng thấy
mình đây nhàn rỗi quá,
Gọi con
đem giấy gọt đôi vần.
Chú thích:
(1). Hồ Chí Minh - Thơ toàn tập, Nxb Văn học, 2003,
tr.481.
(2). Hồ Chí Minh - Thơ toàn tập, Sđd, tr.480.
(3). Trong bài viết đã dẫn, ông Trần Đắc Thọ nói việc
tiến tới xuất bản bản dịch trọn vẹn năm 1990 của Viện Văn học là do chỉ thị của
ông Trường Chinh.
(4). Hiện còn giữ được hai biên bản ghi tất cả các góp
ý của những thành viên phát biểu trong cuộc họp này: Nguyễn Sĩ Lâm, Hoàng Xuân
Nhị, Đỗ Văn Hỷ, Lê Trí Viễn, Đỗ Ngọc Toại, Đinh Gia Khánh, Tô Lân, Phạm Công
Minh, Đoàn Ngọc Phan, Bùi Văn Nguyên, Khương Hữu Dụng. Cuộc họp do Hoàng Trung Thông
chủ trì.
(5). Thực ra, bản dịch năm 1960 in là “nhàn tọa”, và
Nam Trân dịch là “nhàn rỗi”; sau này đối chiếu lại bản gốc chúng tôi thấy đó là
chữ “bế” nên đã sửa lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét