PGS. TS ĐÀO THÁI TÔN: BẢN
DỊCH “NHẬT KÝ TRONG TÙ” – NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY
PGS. TS Đào Thái Tôn: Bản
dịch “Nhật ký trong tù” – những điều trông thấy
Trên FB của một người lấy
tên là Sơn Kiều Mai gần đây có một bài viết chỉ trích nặng nề GS Nguyễn Huệ Chi
trong việc chỉnh sửa tác phẩm Nhật ký trong tù (NKTT) do nhà thơ Nam Trân dịch
hồi 1960 (dịch 113 bài, để lại 20 bài). SKM mượn bài viết của PGS TS Đào Thái
Tôn nói về Nam Trân và việc chỉnh sửa NKTT, và mượn cả ý kiến PGS TS Đoàn Lê
Giang nói về ông Nguyễn Khắc Thuần rồi trưng ra một tấm hình tờ bìa lót cuốn
Suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù do GS Nguyễn Huệ Chi chủ biên (NXB Giáo dục,
1997) đề đi đến kết luận: “Nam Trân vào xó chình ình Huệ Chi”.
Nhưng cũng trên trang FB ấy,
ngoài những comments như “Nản khi đọc về một nhân sĩ chấy thức” (Nguyễn Văn
Minh) hoặc “Toàn một lũ chống cộng điên cuồng” (Trần Thư)…, có 3 comments của
hai người là Tom Jerry và PGS TS Đoàn Lê Giang. Trong comment thứ nhất, Tom
Jerry đưa ra tấm hình một trang ghi tên những người soạn Suy nghĩ mới về NKTT
và những người dịch NKTT rồi bình: “Thấy lời chửi bới mở sách ra đọc thì ô hay,
không tên cụ Nam Trân đứng trên cùng trong Dịch thơ thì là gì đây? SKM là ai mỗ
không biết, mỗ chẳng thiên vị ai, nhưng có lẽ cái trò chỉ đưa một phần sự thật
để biến không thành có đã đủ biết bài viết có đáng tin hay ko và người đưa nhân
cách thế nào!”.
Tiếp đó, PGS TS Đoàn Lê
Giang trong comment của mình viết: “NÓI CHO RÕ. Trong Status trên [của SKM] có
đoạn: “P/s: Có người hỏi tôi rằng: Hình như ông Huệ Chi chưa từng tự dịch được
một tác phẩm nào từ bản gốc? Tôi mượn câu nói của ông Đoàn Lê Giang thay câu trả
lời: Nếu ông Nguyễn Khắc Thuần tự dịch được một tác phẩm nào từ bản gốc thì sẽ
đổi cả tủ sách Hán Nôm. Huệ Chi cũng vậy”. Nên hiểu cho rõ là tôi chỉ nhận xét
về ông Nguyễn Khắc Thuần, ông Thuần dịch lại Lê Quý Đôn toàn tập và nhiều sách
khác, nhưng tôi chưa thấy ông Thuần dịch một bản chữ Hán nào mới cả. Còn câu
sau “Huệ Chi cũng vậy.” là câu của Kiều Mai Sơn. Tôi chưa bao giờ nhận xét gì về
chữ Hán và việc dịch chữ Hán của GS. Nguyễn Huệ Chi”.
Tiếp đó nữa, Tom Jerry lại
viết trong comment thứ hai: “Tò mò vì thấy SKM viết hình như có cái gì đó anh
hùng núp bên trong, mỗ quyết tìm bằng đc bài Đào Thái Tôn để đọc. Thì ra mình
nghĩ chẳng có sai. Ô ĐTT có phê phán ô Huệ Chi mô, ông ta phê cấp trên đã truyền
lệnh xuống cho Tiểu Ban Viện Văn Học bắt phải dịch lại “Nhật ký trong tù” từ hồi
năm 1978 nên Viện này phải “làm dâu trăm họ” đó chớ. Này nha: “Nhưng nếu như
năm 1961, Nam Trân đã trình bày cặn kẽ với thực khách về kỹ thuật bếp núc của
người đầu bếp thì năm 1978 Viện Văn Học lại quá tin theo góp ý của mọi người,
lâm vào cảnh làm dâu trăm họ nên thế tất sẽ phát sinh lúng túng. Nhưng một khi
cấp trên đã chủ trương như vậy, cấp dưới phải thực hiện. Tiểu Ban đã thực hiện
một cách nghiêm túc trên tinh thần phát huy truyền thống khoa học của Viện, lần
lại hồ sơ, tìm thêm được ba trong 20 bài Nam Trân đã dịch chưa công bố để đưa
thêm vào “Nhật ký trong tù” (bản dịch trọn vẹn)… ” (Bài “Bản dịch Nhật ký trong
tù – Những điều trông thấy” sách “Nam Trân – nhà thơ, nhà giáo, dịch giả”, trg
289). Này nữa này: “Từ chỗ thành tâm thực hiện chủ trương cấp trên, những tưởng
sẽ góp phần nâng cao hơn nữa bản dịch, Tiếu ban ko thể ngờ rằng những lúng túng
trên đây đã tạo tiền lệ cho một số người vì mục đích riêng bám vào. Từ đó, họ
mượn cớ “dịch lại” Nhật ký trong tù, tha hồ tùy tiện sửa chữa, xóa bỏ những bản
dịch thơ Nam Trân, đưa thêm những bản dịch khác” (trg 290). Đọc xuống nữa thì mới
ngộ ra “một số người vì mục đích riêng bám vào” là 2 người, đó là Ng Đức Diệu
nào đó – GĐ Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, và ghê gớm hơn là Mai Quốc Liên –
Trung Tâm Quốc Học nào đó, mỗ đều chẳng rành. Kkk… Hôm trước mỗ đã đoán già
đoán non mà hóa trúng. Thời buổi này giới văn chươg chữ nghĩa đang huých thẳng
nhau gọi là phê bình đấy”.
Để có cái nhìn khách quan,
dưới đây chúng tôi xin đăng lại bài viết chính thức, có lẽ là bài sau cùng của
PGS TS Đào Thái Tôn viết về vấn đề đã nêu (mà SMK đã nhắc), đọc tại lễ kỷ niệm
100 năm sinh Nam Trân 2008, in trong sách Nam Trân – Nhà thơ, nhà giáo, dịch giả,
NXB Tri thức, 2017, tr. 283-311, ngõ hầu giúp bạn đọc thưởng lãm (chúng tôi có
in đậm hai đoạn mà Tom Jerry đã trích dẫn).
Văn Việt
TỪ TIỀN LỆ DỊCH LẠI “NHẬT
KÝ TRONG TÙ” …
1. Bản gốc Ngục trung nhật
ký hiện lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam đánh số từ bài 1 đến 133. Nếu tính
cả 4 câu thơ như lời Đề từ viết phía trên bức tranh minh họa hai cổ tay bị
xích, là 134 bài. Nhưng vì bài số 100 chỉ có ba chữ “Liễu Châu ngục”, nên tập
thơ vẫn là 133 bài. Theo Nam Trân, ngày đó do có một số bài liên quan tới những
người làm việc cho Tưởng Giới Thạch, dịch ra không tiện (1) nên năm 1960 đã để
lại 20 bài, công bố 113 bài. Nếu tính cả bài Mới ra tù tập leo núi Tố Hữu đề
nghị dịch thêm (2) vốn nằm ngoài tập thơ, thì bản in năm 1960 đã công bố 114
bài.
2. Vì thế, cuối năm 1977,
một Tiểu ban chỉnh lý và bổ sung bản dịch Nhật ký trong tù của Viện được thành
lập và đến năm 1983, lần đầu tiên đưa thêm được 13 trong 20 bài chưa công bố. Đến
năm 1990 mới công bố được bản dịch trọn vẹn, kể cả bài Mới ra tù tập leo núi, gồm
134 bài. Phần bổ sung đã xong. Nhưng việc dịch lại phần dịch nghĩa, chỉnh lý một
số câu chữ trong phần dịch thơ, thay thế một vài bài thơ dịch bằng bài dịch mới,
hoặc dịch thêm một bản dịch khác (3) khi tác giả và dịch giả đều đã mất, là việc
làm khá bất ngờ; bởi ai cũng biết rằng, để tỏ lòng thành kính đối với tác phẩm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và khẳng định chất lượng bản dịch Nhật ký trong tù, từ
khi công bố (1960), bản dịch không mang danh nghĩa cá nhân mà mang danh nghĩa
VIỆN VĂN HỌC. Nam Trân rất thanh thản về điều đó. Có lẽ Chế Lan Viên là người đầu
tiên khẳng định công lao của Nam Trân. Trong bài Nhớ tiếc Nam Trân (4), Chế Lan
Viên viết: “Chỉ một việc anh dịch xong tập thơ của Bác, Anh đã coi là có thể
làm xong nhiệm vụ của Cách mạng. Nếu anh rất vinh dự được Cách mạng giao cho
công tác ấy thì hàng triệu độc giả cũng cảm ơn Anh vì nhờ Anh, họ đã thưởng thức
được Nhật ký trong tù”.
Lý do việc dịch lại, đã được
Viện Văn học cho biết, là: Trong 30 năm qua, bạn đọc từ nhiều miền của Tổ quốc
đã gửi về những bản góp ý cụ thể, tỉ mỉ về chất lượng bản dịch. Báo chí cũng từng
trao đổi nhiều xung quanh vấn đề đó nên năm 1977 một Tiểu ban đã chính thức được
thành lập để chỉnh lý bản dịch. Vậy chúng ta hãy cùng nhau xem lại những góp ý
qua các thời kỳ:
Năm 1961. Ngay khi bản dịch
mới ra đời, bên cạnh nhiều thư từ gửi đến Viện Văn học hoan nghênh, Nam Trân
cũng “nghe được nhiều tiếng chuông rất khác nhau”. Vì thế, trên Tạp chí Văn học
số 9/1961, khi viết bài cảm ơn thịnh tình của bạn đọc, ông không quên dẫn ra
hai góp ý tiêu biểu để từ tốn thưa lại. Ông viết:
- “Bà Hoàng Thị Liên, phát
biểu: “Bản dịch của Viện rất hay nhưng tôi nghĩ rằng muốn phổ thông hóa các bài
thơ đó thì phải dịch theo thể thơ lục bát mà dịch liên tiếp nhau thành một tập
thơ kể chuyện”. Nam Trân thưa: “Chúng tôi thấy đó là một sáng kiến xuất phát từ
tinh thần phục vụ quảng đại quần chúng nhân dân. Song rất tiếc là sáng kiến đó
không thực hiện được vì lẽ rằng chúng ta không thể kết lại thành một thiên tự sự
những bài thơ có lối cấu tạo riêng biệt của nó”.
- “Bạn Hồ Lãng có ý kiến:
“Kể thì đọc những câu thơ dịch, những ai dễ tính rất có thể khen là bay bướm mượt
mà, nên thơ hơn nguyên tác thật. Song chính cái hay hơn này, nên bản dịch mới
thật là đáng trách. Chúng ta cứ tưởng tượng như có một người nào đó xem tượng vạc
đắp, rồi trông thấy mà đắp theo, nhưng lại gọt hết những nét gai gợn xù xì trên
pho tượng cho mượt mà đi; hoặc họ xem tranh chấm phá, rồi vẽ theo nhưng lại tô
những nét loang lổ xơ xác cho gọn lại; thì ta sẽ thấy việc làm của họ không những
đã không nên khen mà còn phải phê bình là khác”. Nam Trân thưa: “Trong bài này
chúng tôi sẽ không đề cập tới những ý kiến liên quan đến các vấn đề lý luận (Thế
nào là giữ phong cách của thơ trong bản dịch? Thế nào là không lệ thuộc quá mức
vào nguyên tác?…). Vì lẽ rằng ý kiến của các bạn đã xác định những điều mà
chúng tôi sẽ học tập được trong quá trình dịch tập thơ. Tuy nhiên, có một điểm
cần phải nêu lên là chúng tôi không bao giờ quan niệm công tác dịch thơ như
công tác bắt chước đắp lại một pho tượng hoặc vẽ lại một bức tranh. Trái lại,
theo chúng tôi, người dịch thơ phải làm việc với óc sáng tạo, chí ít cũng có phần
sáng tạo trong ngôn ngữ dân tộc. Sau khi tìm hiểu tâm cảnh, ý cảnh trong bài
thơ, người dịch phải diễn đạt lại tinh thần của một tác phẩm nghệ thuật dưới một
hình thức hoàn toàn thích hợp với nội dung. Đó là chỗ chúng tôi thấy có khác
nhau với quan điểm trên đây của bạn Hồ Lãng.
Hơn nữa, bút pháp trong
thơ Hồ Chủ tịch có cái hoàn chỉnh đặc biệt của nó. Ấy là lối hoàn chỉnh mà người
xưa gọi là thiên y vô phùng (áo trời không có đường may), tuyệt nhiên không phải
là những nét xù xì gai gợn như trên một pho tượng nào. Điều khó dịch trong thơ
Hồ Chủ tịch là thơ của Người đã vượt qua khỏi cái đỉnh cao nhất của thời kỳ
điêu luyện và đã trở thành một nghệ thuật giản dị hầu như tự nhiên”.
Năm 1978. Xem lại biên bản
cuộc họp cộng tác viên đầu năm 1978 “góp ý về những bản dịch” (5), thì thấy:
Một là, đã gọi là góp ý
thì phải góp từ khâu bản thảo. Đằng này ván đã đóng thuyền, sách đã in từ 1960
mà năm 1978 mới “góp ý”, thì góp cho ai? Đây là cuộc họp phê bình bản dịch.
Nhưng Nam Trân đã mất (1967), Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đã mất (1969), trong
khi bản dịch tập thơ đã đi sâu vào tâm thức quần chúng như một hiện tượng lịch
sử, văn học lớn thì việc dịch lại như vậy, có nên chăng?
Hai là, đọc biên bản, thấy
nhiều người mang một số chữ trong câu thơ dịch để phê phán rằng dịch chưa sát với
nghĩa chữ Hán của nguyên tác, thì là điều thật lạ lùng. Trong không khí như thế,
khi Lê Trí Viễn nói “cái đích là phải đạt được những bản dịch khiến người ta
quên nguyên bản. Đối với bản dịch thì khó hơn. Có khi người ta chấp nhận một bản
dịch xa nguyên tác một chút, nhưng hay” thì, ý kiến của ông như lạc đề, không
được ai chú ý. Nếu như vậy thì từ bản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm đến
những bài thơ tự dịch của Phạm Quý Thích, Nguyễn Khuyến, thậm chí là cả bản dịch
Tân xuất ngục học đăng sơn (Mới ra tù tập leo núi) của T.Lan (6), của Nam Trân…
cũng sẽ bị phê là những bản dịch “không sát với nguyên tác”!
Có nhìn lại như thế mới thấy
rằng người dịch thơ như người soạn món ăn mà người đọc chẳng khác nào thực
khách. Nhưng nếu như năm 1961, Nam Trân đã trình bày cặn kẽ với thực khách về kỹ
thuật bếp núc của người đầu bếp thì năm 1978 Viện Văn học lại quá tin theo góp
ý của mọi người, lâm vào cảnh làm dâu trăm họ nên thế tất sẽ phát sinh lúng
túng. Nhưng một khi cấp trên đã chủ trương như vậy, cấp dưới phải thực hiện. Tiểu
ban đã thực hiện một cách nghiêm túc trên tinh thần phát huy truyền thống khoa
học của Viện, lần lại hồ sơ, tìm thêm được ba trong 20 bài Nam Trân đã dịch
chưa công bố để đưa thêm vào Nhật ký trong tù (bản dịch trọn vẹn) (7). Nhưng vì
theo sát những góp ý của cộng tác viên, Tiểu ban đã hồn nhiên chỉnh lý cả phần
dịch nghĩa lẫn phần dịch thơ, thậm chí dịch lại một số bài. Thế là những lúng
túng bắt đầu hiện ra khi gặp những câu hỏi:
a) Liệu có cần dịch lại cả
phần dịch nghĩa và một số bài thơ Nam Trân đã dịch không?
b) Những bài thơ được chỉnh
lý hay thay bằng bản dịch khác, có chắc chắn là hay hơn bản dịch của Nam Trân
không, khi bản dịch cũ của ông không còn để so sánh?
c) Việc đưa thêm bản dịch
để bạn đọc cân nhắc là không cần thiết. Vì sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh không
hề đọc duyệt bản dịch nào khác, ngoài bản dịch năm 1960. Nghĩa là bản dịch đã
đi vào lịch sử. Vả chăng Nam Trân cũng đã mất từ lâu; bản dịch của ông không phải
nơi đưa thơ của người khác vào, để thi tài.
Thế là, từ chỗ thành tâm
thực hiện chủ trương cấp trên, những tưởng sẽ góp phần nâng cao hơn nữa bản dịch,
Tiểu ban không thể ngờ rằng những lúng túng trên đây đã tạo tiền lệ cho một số
người vì mục đích riêng bám vào. Từ đó, họ mượn cớ “dịch lại” Nhật ký trong tù,
tha hồ tùy tiện sửa chữa, xóa bỏ những bản dịch thơ Nam Trân, đưa thêm những bản
dịch khác.
ĐẾN VIỆC NHÌN LẠI HAI BẢN
“DỊCH LẠI”
I. Ngay sau khi Viện Văn học
lần đầu tiên công bố Nhật ký trong tù (bản dịch trọn vẹn), năm 1992, Giám đốc
Nhà xuất bản Khoa học xã hội tự phong là Chủ tịch Hội đồng Biên tập Nhật ký
trong tù, đã tập hợp một số người “dịch lại” bản dịch của Viện Văn học. Bản dịch
được ghi trang trọng tại trang 5:
“HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP
NHẬT KÝ TRONG TÙ
Chủ tịch
NGUYỄN ĐỨC DIỆU
Các ủy viên:
TRẦN LÊ VĂN – TRỊNH NHU
NAM SƠN – CHÂU QUANG THÉP
PHẠM NGỌC HY (Thường trực)
Và trang 6:
Khảo văn bản, phiên âm và
chú giải:
GS. NGUYỄN SĨ LÂM
Dịch thơ:
VIỆN VĂN HỌC (NXB VĂN HỌC,
1983)
GS. NGUYỄN SĨ LÂM
TRẦN ĐẮC THỌ – KHƯƠNG HỮU
DỤNG
TÔ LÂN – NGUYỄN MỸ TÀI
PHAN TRỌNG BÌNH – HOÀNG
NGÂN
Bản dịch tiếng Anh
ĐẶNG THẾ BÍNH – NGUYỄN VĂN
SỸ”
Cuốn sách cũng dịch trọn vẹn
133 bài như bản năm 1990 của Viện Văn học, nhưng xóa bỏ hơn ba phần tư số bài
thơ dịch của Nam Trân, thay bằng bản dịch khác. Lời Nhà xuất bản và Hội đồng
Biên tập Nhật ký trong tù nói về việc cho ra đời cuốn sách, như sau:
“Nhật ký trong tù được Viện
Văn học biên dịch và công bố từ năm 1960, rồi qua những lần chỉnh lý, bổ sung,
tái bản (1977, 1980, 1983, 1990), đến nay đã tròn 30 năm, và đó là sự đóng góp
kịp thời, to lớn đối với bạn đọc trong nước cũng như ngoài nước. Tuy nhiên,
nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Khoa
học xã hội công bố thêm một bản dịch Nhật ký trong tù với hy vọng cùng bản dịch
của Viện Văn học tạo thành một cộng hưởng nhằm phục vụ bạn đọc có hiệu quả hơn,
sâu rộng hơn, ghi dấu những ngày sôi động, thiêng liêng mà toàn dân ta đang cùng
nhân dân thế giới tưởng niệm công lao to lớn của Người” (tr.7).
Cuốn sách ra đời nhằm kỷ
niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1990) mà đến 1992 mới in xong
là điều đáng tiếc. Nhưng điều đáng chú ý là bản dịch này chỉ giữ lại 35 bài của
Nam Trân (gọi là bản dịch Viện Văn học). Trong khi đó, Nguyễn Sĩ Lâm có 47 bài;
Trần Đắc Thọ, 33 bài; Hoàng Ngân, 5 bài; Khương Hữu Dụng, 2 bài (bài 26, 109);
Phan Trọng Bình, 2 bài (bài 95, 107); Nguyễn Mỹ Tài, 2 bài (bài 56, 76); Tô
Lân, 1 bài, v.v.
Cuốn sách cho biết, đã dịch
“theo nguyên bản Ngục trung nhật ký lưu trữ tại Viện Bảo tàng Cách mạng Việt
Nam” (trang 168). Nhưng điều này không có gì mới, vì năm 1960 Viện Văn học cũng
dịch từ bản gốc này và khi gặp một vài chữ băn khoăn, đã xin ý kiến Hồ Chủ tịch.
Năm 1990 Viện lại đã trình bày cụ thể từng trường hợp chữ nghĩa so với bản
1960. Bản 1992 [của NXB Khoa học xã hội] cũng khảo văn bản, nhắc lại những chữ
nghĩa bản 1990 [của Viện Văn học] đã trình bày; nhưng đến khi đưa thêm một số
trường hợp thì lại khảo đính cả những bài mà năm 1960 Viện Văn học chưa công bố
để nói rằng công bố sai (như bài 87, 88 Ký Nê Lỗ – Gửi Nêru). Và có trường hợp
còn khảo không đúng (8). Về chất lượng các bản dịch thơ ở bản 1992, nếu ai đã đọc
bài phê bình của Vũ Ngọc Khánh, chắc không muốn nói gì thêm (9).
Nhưng bản 1992 đã sinh
thêm tiền lệ mới: ghi tên dịch giả dưới mỗi bài thơ.
Thế là, con gà tức nhau tiếng
gáy, có lẽ Tiểu ban Viện Văn học nghĩ rằng, năm 1990 khi công bố bản dịch trọn
vẹn, chúng ta không đưa tên người dịch dưới mỗi bài thơ mà chỉ trân trọng đưa
tên Nam Trân như linh hồn của bản dịch, kèm theo danh sách Tiểu ban (10). Thế
mà nay, Nhà xuất bản Khoa học xã hội lại nêu tên 8 dịch giả. Vậy thì tội gì ta
không nêu. Thế là, khi cho in lại bản dịch trọn vẹn [năm 1993], Tiếu ban bèn
trương ra một danh sách 15 người:
“Dịch thơ
NAM TRÂN
VĂN TRỰC – VĂN PHỤNG –
KHƯƠNG HỮU DỤNG – T.LAN – HUỆ CHI – BĂNG THANH – ĐỖ VĂN HỶ – HOÀNG TRUNG THÔNG
– XUÂN THỦY – XUÂN DIỆU – TRẦN ĐẮC THỌ – VŨ HUY ĐỘNG – NGUYỄN SĨ LÂM – HOÀNG
NGÂN – NGUYỄN BÁU – HẢI NHƯ”.
So với bản in 1960, từ chỗ
114 bài trong bản 1960, đến bản in trọn vẹn lần này (11), Nam Trân đã bị thay
thế 17 bài trong đó có 8 bài ký tên Văn Trực – Văn Phụng, bút danh của Phạm Văn
Bình. Chúng tôi ngờ rằng có sự nhân nhượng. Vậy xin trình bày:
Đầu năm 1978, tại cuộc họp
cộng tác viên Viện Văn học, có người cho rằng ông Phạm Văn Bình là người đầu
tiên có công dịch toàn bộ Nhật ký trong tù. Đến năm 2000, có người đã khai thác
việc này, viết mập mờ (12). Có phải đây là sức ép khiến Tiểu ban phải ghi tên
Văn Trực – Văn Phụng là dịch giả 8 bài thơ trong bản dịch năm 1960 (?). Sở dĩ đặt
ra câu hỏi này là vì, khi so bản lược dịch của ông Bình hiện còn lưu ở Viện
(trong cột II bảng thống kê) với bài thơ dịch của Nam Trân (cột III) và bài được
ghi tên ông Bình (cột IV), chúng tôi thấy những bài thơ ở cột III đã được đưa
sang cột IV. Cụ thể là:
- Bài thứ nhất và thứ hai,
Học đánh cờ (1, 2) không phải bản lược dịch của ông Bình; Bài thứ ba, nói cho
vui là chữa vài chữ trong bản cột III, đưa sang cột IV; Bài thứ bốn, năm, sáu bảy
và tám (Học đánh cờ 3, Ghẻ, Nghe tiếng giã gạo, Giải đi Vũ Minh, Cột cây số) đều
là các bản dịch của cột III, bị đưa sang cột IV. Hơn nữa, có bài ký tên Nam
Trân, nhưng đã bị chữa so với bản năm 1960 (như bài Cảm tưởng đọc ‘Thiên gia
thi’) (13).
II. Tiền lệ sinh ra tiền lệ.
Năm 2000 đã ra đời cuốn sách “dịch lại” tất cả những gì người ta đã dịch lại.
Đó là cuốn sách của Trung tâm Nghiên cứu Quốc học. Tận thu kết quả từ các cuốn
sách mà nhiều người đã làm từ năm 1990, năm 2000 Trần Đắc Thọ đứng tên “dịch lại”
Nhật ký trong tù (14).
Sách gồm 3 phần : I. Nhật
ký trong tù. II. Những bài thơ chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết từ năm
1940. III. Những bài thơ tiếng Việt. Trang 4 cuốn sách ghi 20 dịch giả:
“DỊCH THƠ:
NAM TRÂN – QUÁCH TẤN – TỐ
HỮU – TRẦN ĐẮC THỌ – VĂN TRỰC – VĂN PHỤNG – BẢO ĐỊNH GIANG – HOÀNG TRUNG THÔNG
– XUÂN DIỆU – HUY CẬN – ĐỖ VĂN HỶ – PHAN VĂN CÁC – NGUYỄN SĨ LÂM – HOÀNG ĐĨNH –
NAM SƠN – KHƯƠNG HỮU DỤNG – NGUYỄN MỸ TÀI – HẢI NHƯ – MAI QUỐC LIÊN – NGUYỄN QUẢNG
TUÂN”.
Trang 5 ghi:
“Dịch nghĩa, chú thích, hiệu
đính văn bản
TRẦN ĐẮC THỌ
Nhuận chính và tuyển thơ
MAI QUỐC LIÊN
Bản dịch mới, tư liệu mới
Lần đầu tiên in kèm toàn
văn thủ bút chữ Hán “Ngục trung nhật ký”
của Chủ tịch Hồ Chí Minh”
Nhưng sau khi xem kỹ, cuốn
sách có 4 điều chưa rõ ràng:
Trước hết, Nhật ký trong
tù là một tác phẩm độc lập, vì thế, các dịch giả tại Phần I và Phần II cuốn
sách phải ghi tách biệt, không thể đề tên một lèo 20 người dịch như vậy. Theo
đó, Huy Cận, Mai Quốc Liên, Phan Văn Các, Tố Hữu, T. Lan thuộc danh sách những
người dịch Phần II (Thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh từ năm 1940) – trong đó, Mai Quốc
Liên chỉ dịch 1 bài, là bài Phỏng Khúc Phụ. Thực ra bài này do Đặng Thai Mai dịch
nhưng Mai Quốc Liên đã xóa đi, thay bằng bản dịch của Quách Tấn, kèm theo bản dịch
của ông và Trần Đắc Thọ. Vậy xin ghi lại đây bản dịch của Đặng Thai Mai được
Phan Văn Các sưu tầm trong Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh (NXB. Văn học, H, 1990) (15)
và bản dịch của cả ba ông.
Sau nữa, Phần I cuốn sách
đã mang tên Trần Đắc Thọ. Vậy ai chịu trách nhiệm Phần II và Phần III? Sao
không nói rõ?
Đến đây, xin xét từng Phần
I, II, III của cuốn sách.
Phần I, “Nhật ký trong
tù”. Bản dịch Nhật ký trong tù tại Phần I có phải là bản dịch mới, tư liệu mới?
Việc hiệu đính văn bản thế nào? Bản chụp thủ bút chữ Hán Ngục trung nhật ký của
Chủ tịch Hồ Chí Minh có phải là văn bản trung thành với bản gốc không?
1. “Bản dịch mới” thì đúng
rồi. Vì cứ theo tiền lệ, nhóm Mai Quốc Liên tha hồ “dịch lại” bản năm 1960 của
Nam Trân, bản năm 1990 Viện Văn học đã dịch lại Nam Trân và cả bản năm 1992
[NXB KHXH] đã dịch lại hai bản trên. Nghĩa là dịch lại tất cả những bản đã dịch
đi dịch lại. Tiền lệ đã có. Cứ thế mà làm.
2. Nhật ký trong tù tại Phần
I cuốn sách có tư liệu mới không? Không. Đó chỉ là bí mật “kế thừa” các cuốn
sách người khác đã làm từ 1990. Cụ thể là:
2.1. Đã đọc rất kỹ Nhật ký
trong tù (bản dịch trọn vẹn) của Viện Văn học. Bằng chứng là, trong việc ghi
tên người dịch dưới mỗi bài thơ, bản Viện Văn học là bản lần đầu tiên ghi tên
Văn Trực-Văn Phụng, lần đầu tiên ghi tên hai người dịch chung bài thơ 4 câu Đến
Quế Lâm – là Xuân Diệu và Đỗ Văn Hỷ. Vậy chắc chắn là phải đọc rất kỹ bản của
Viện Văn học, thì nhóm Mai Quốc Liên mới có cứ liệu đề tên người dịch trong các
bài thơ này (16).
2.2. Đọc rất kỹ bản 1992 của
Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Bằng chứng là, bản 1990 của Viện Văn học và bản
1992 của Nhà xuất bản Khoa học xã hội đều đã khảo đính văn bản. Nhóm Mai Quốc
Liên đã hiệu đính đúng vào những chỗ mà hai bản đã khảo trước đó hàng chục năm;
hơn nữa, lại thấy xuất hiện bút danh Nam Sơn trong bài Tù cờ bạc (trong khi Nam
Sơn là bút danh lần đầu xuất hiện với danh nghĩa người khảo chứng văn bản tại bản
1992, trang 176; người dịch thơ bài Tù cờ bạc trong bản này, ghi là: Theo Nguyễn
Sĩ Lâm).
2.3. Còn như nói rằng bản
mang tên Trần Đắc Thọ đã “dịch nghĩa, chú thích, hiệu đính văn bản” cũng không
đúng. Vì cả ba công việc này Nam Trân và các học trò của ông ở Viện đã làm từ
năm 1960 đến 1990.
Thế nhưng, để in cho được
cuốn sách do Trần Đắc Thọ đứng tên với hiện trạng “kế thừa” như ta đã thấy trên
đây, Mai Quốc Liên viết: “Cụ Trần Đắc Thọ năm nay đã ngoài 80 tuổi, là một người
hoạt động chính trị – xã hội chuyên nghiệp. Vì yêu thích thơ ca, Hán học và đặc
biệt ngưỡng mộ thơ Hồ Chí Minh, cụ đã dành thời gian cuối đời sưu tầm tư liệu,
chỉnh lý, chú thích thơ Hồ Chí Minh trên thành tựu của nhiều nhà nghiên cứu đi
trước. Phải mất rất nhiều thời gian và công phu, cụ mới hoàn thành được bản dịch
nghĩa (và bản dịch thơ) mới. Nhưng công trình của Cụ hẳn đã không tránh khỏi
vài ý kiến và thao tác chưa được nhuần nhị, bên cạnh những phần đóng góp quý
báu, có ý nghĩa trong việc hoàn thiện một bản dịch xứng đáng với nguyên tác”
(Tr.14. Sđd).
Thật mập mờ. Nghiên cứu
văn học cũng là hoạt động chính trị – xã hội. Không nói nghề nghiệp cụ thể của
ông Trần Đắc Thọ là gì mà chỉ nói về cuối đời, vì yêu thích thơ ca, Hán học và
ngưỡng mộ thơ Hồ Chí Minh mà dịch Nhật ký trong tù thì khác gì Mai Quốc Liên
xác nhận ông Thọ chỉ là người nghiên cứu nghiệp dư? Chính vì thế mà Mai Quốc
Liên đã phải “gia công sửa chữa, hiệu chỉnh, để cố gắng đảm bảo tính chính xác”
(Tr.14. Sđd), nghĩa là không có ông, bản thảo của Trần Đắc Thọ khó mà in được.
Việc nói chung chung rằng
ông Thọ đã sưu tầm tư liệu, chỉnh lý, chú thích thơ Hồ Chí Minh trên thành tựu
của nhiều nhà nghiên cứu đi trước, là một sự mập mờ. Bởi như chúng ta đã thấy
thành tựu của những người đi trước là hai cuốn sách trên đây nhưng đã bị nhóm
Mai Quốc Liên giấu biệt nguồn tài liệu. Việc làm đó là vi phạm nguyên tắc khoa
học. Đó cũng là sự không trung thực, không thể chấp nhận được. Vì thế khi Mai
Quốc Liên viết rằng, bản dịch Nhật ký trong tù của các ông có “những đóng góp
quý báu, có ý nghĩa trong việc hoàn thiện một bản dịch xứng đáng với nguyên
tác” cũng là điều mập mờ, không hề chứng minh.
Để in được cuốn sách này,
Mai Quốc Liên đã xóa bỏ 22 bài thơ của Nam Trân, mặc dù cách đây 10 năm, ông đã
hết lời ca ngợi thầy mình, “bản dịch Nhật ký trong tù của ông chuyển đạt hồn
thơ, tình điệu của nguyên tác một cách xuôi chảy như chính ông sáng tác nó ra vậy.
Đó là một sự nhập thần tinh diệu, một đỉnh cao và một kiểu mẫu của việc dịch
thơ. Nó được người ta ngâm đọc, trích dẫn mà ít khi cần đến chữ Hán bên cạnh.
Đó là công lao to lớn của Nam Trân” (17). Nhưng, tuy có tên trong 29 bài dịch,
Trần Đắc Thọ cũng chỉ thay Nam Trân được 7 bài; Quách Tấn tuy có tên trong 68
bài, nhưng chỉ thay được 8 trong số 22 bài Nam Trân bị xóa. Các bài còn lại, vẫn
phải đứng ké bên cạnh bản dịch của Nam Trân. Để in 68 bài thơ của Quách Tấn,
Mai Quốc Liên viết: “Quách Tấn với Nam Trân, Chế Lan Viên… vốn là bạn thơ thời
Thơ Mới và là một người dịch thơ chữ Hán rất sành điệu… Chúng tôi trân trọng bản
dịch của một nhà thơ phương Nam như thế, và đã chọn ở đây những bài thơ đạt nhất
bên cạnh các bản dịch của nhiều nhà thơ khác”… Rất sành điệu hay không, bạn đọc
sẽ nhận xét. Còn như, khi đất nước đã thống nhất 25 năm rồi, thì trong văn học
đừng nên phân vùng Nam, Bắc. Vả chăng, Quách Tấn là người miền Nam (quê Bình Định)
thì Nam Trân cũng là người miền Nam (quê Quảng Nam) lại là cán bộ miền Nam tập
kết có nhiều đóng góp cho văn học nước nhà. Vì thế thiết nghĩ, chả cần nhắc đến
vùng miền làm gì. Miễn là dịch cho thật “sành điệu”.
3. Cuốn sách còn được giới
thiệu đây là “lần đầu tiên in kèm toàn văn thủ bút chữ Hán Ngục trung nhật ký của
Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Nhưng khi thấy bản chụp in kèm cuốn sách không nêu nguồn
tư liệu, lại đã bị lắp ghép, tẩy xóa, chúng tôi cho rằng người làm sách đã chữa
bản gốc nhằm bưng bít thông tin để giả vờ nghiên cứu văn bản học. Hai bài viết
hàm hồ của Trần Đắc Thọ tại cuốn sách (Tr. 475-486) là bằng chứng của việc làm
này. Tại hai bài viết, Trần Đắc Thọ đã gieo rắc sự hoài nghi không đáng có, là
Bác Hồ đã nhờ ai đó chép lại Nhật ký trong tù. Sau khi tung ra nghi ngờ đó, ông
khoe công đã nghiên cứu văn bản học để chứng minh rằng đây là bản do Bác Hồ
“chép lại ”! Điều kỳ lạ hơn là, ngay sau đó ông lại nói rằng bản Bác Hồ chép lại
này, chỉ là “á bản”, không phải là chính bản.
Những ai từng để ý đến luận
điệu của Lê Hữu Mục về Nhật ký trong tù (18) hẳn phải nhận rằng những điều hồ đồ
trong cuốn sách này đã đụng chạm tới vấn đề nghiêm trọng. Vì thế, chúng tôi xin
có bài viết riêng.
Phần II. Những bài thơ chữ
Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết từ năm 1940, không ghi rõ do ai sưu tầm, biên
soạn. Nhưng Mai Quốc Liên viết: “Những bài thơ chữ Hán Hồ Chí Minh làm ở Trung
Quốc, hoặc xướng họa với các bạn bè Trung Quốc, có một phong vị riêng. Gần năm
chục bài thơ chữ Hán về đề tài này mới sưu tầm được, hé mở cho chúng ta thấy
thêm những khía cạnh về con người Hồ Chí Minh… ” thì, mấy dòng viết này có ba
cái sai:
Một là, những bài thơ chữ
Hán ở Phần II, không phải chỉ là những bài thơ chữ Hán Hồ Chí Minh làm ở Trung
Quốc, hoặc xướng họa với các bạn bè Trung Quốc mà có nhiều bài làm ở Việt Nam,
xướng họa với cụ Bùi Bằng Đoàn, Điếu Bộ trưởng…, và nhiều đề tài khác. Muộn nhất
là bài Mậu Thân xuân tiết (Tiết xuân Mậu Thân) viết ngày 14/4/1968.
Hai là, Phần II không phải
có gần năm chục bài mà chỉ có 36 bài.
Ba là, 36 bài này không phải
nhóm Mai Quốc Liên mới sưu tầm được mà chỉ việc chép lại từ cuốn Thơ chữ Hán Hồ
Chí Minh do Phan Văn Các sưu tầm, in năm 1990 (Sđd). Bằng chứng là, sách của
Phan Văn Các để sót bài thơ rất quan trọng (Mới ra tù tập leo núi) nên khi chép
theo Phan Văn Các để đưa vào Phần II cuốn sách, nói rằng “mới sưu tầm được”,
nhóm Mai Quốc Liên cũng bỏ mất bài này.
Phần III. Những bài thơ tiếng
Việt là phần duy nhất được ghi nguồn tài liệu: “Dựa theo Thơ Hồ Chí Minh. Nhà
xuất bản Nghệ An, 1998”.
Như thế đó, cuốn sách có
ba phần, thì hai Phần I Nhật ký trong tù, lấy từ thành quả nghiên cứu của Viện
Văn học, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội; Phần II Những bài thơ chữ Hán của Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết từ năm 1940 là lấy nguyên xi cuốn sách của Phan Văn Các. Duy
có Phần III là được khai là “Dựa theo Thơ Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản Nghệ An,
1998” (Tr. 341). Hóa ra, làm TOÀN TẬP dễ thật: chỉ việc lấy những cuốn sách mọi
người đã làm, giấu biệt tung tích đi rồi biến hóa một chút đưa in gộp cả lại, gọi
là TOÀN TẬP! Nguyễn Du toàn tập, Hồ Chí Minh, thơ toàn tập của Trung tâm nghiên
cứu Quốc học là thế. Mà ngay cả Nguyễn Trãi toàn tập năm 1967 các cụ đã in lần
thứ hai rồi. Thế mà Mai Quốc Liên cũng “làm lại” toàn tập. Dễ thôi dễ thôi,
thêm cho nó hai chữ, để thành Nguyễn Trãi toàn tập tân biên. Xong. Thế là xóa
tên các cụ, ký tên người khác được ngay.
LỜI KẾT
1. Từ khi Viện Văn học đề
ra việc dịch lại Nhật ký trong tù, đã xuất hiện hàng mấy chục dịch giả mới. Chỉ
điểm những người có số lượng từ hơn 20 bài dịch trở lên, sẽ thấy như sau: Quách
Tấn, 68 bài; Nguyễn Sĩ Lâm, 47 bài; Trần Đắc Thọ 29 bài. Nhưng mọi người vẫn phải
để những bài thơ dịch của mình đứng bên bản dịch Nam Trân, vì chưa ai dịch được
cả 133 bài; vì không ké vào Nam Trân như vậy, các vị không có chỗ in được những
bài thơ dịch của mình. Vậy tốt nhất, xin các vị hãy tập hợp tất cả các bản dịch
của mình, sưu tầm thêm bản dịch của người khác, đưa in riêng.
Chúng tôi biết rằng, mặc
dù bản dịch của Nam Trân đã được thực hiện nghiêm túc, dưới một sự chỉ đạo chặt
chẽ, đặc biệt đích thân tác giả cũng đã tham gia trong một chừng mực nào đó, ở
một vài điểm cụ thể nào đó, nhưng những ai muốn, vẫn hoàn toàn có quyền dịch lại.
Các kiệt tác của văn học thế giới luôn được dịch lại, miễn đó là những nỗ lực mới,
trung thực và nhất là đều đánh dấu một bước tiến mới, dù nhỏ. Vì thế, ai cũng
có quyền dịch đi dịch lại “Nhật ký trong tù” hay bất kỳ tác phẩm chữ Hán nào.
Nhưng: Ai giỏi giang, xin
dịch lại toàn bộ. Còn như chỉ sửa một đôi chữ, thì đàng hoàng nhất là phải giữ
nguyên bản dịch trước và “chua” thêm ý điều chỉnh của mình xuống dưới, như phụ
chú vào bản dịch cũ. Việc sửa một đôi chữ hoặc thậm chí là nhiều, vào bản dịch
của người trước mà không được dịch giả đó đồng ý là điều không thể được. Việc
ký thêm tên mình vào bản dịch cũ trong khi dịch giả đã khuất thì đương nhiên lại
càng không được.
Đã đến lúc phải chấm dứt
tình trạng lấy cớ dịch lại Nhật ký trong tù, để dùng Nam Trân làm nền trong việc
giới thiệu những “dịch giả” khác, làm biến dạng bản dịch lịch sử đã được Đặng
Thai Mai, Tố Hữu đọc kỹ và cao nhất là đã được Bác Hồ đã phê duyệt. Vì thế, năm
1997 chúng tôi đã viết:
“Gần bốn chục năm qua, bản
dịch Nhật ký trong tù của Nam Trân đã in sâu vào tâm khảm nhiều thế hệ bạn đọc
trong nước, trở thành một di vật lịch sử cần được tôn trọng. Hãy để bản dịch lịch
sử đó vẹn nguyên câu chữ như khi nó chào đời, như gìn giữ một di vật trong Bảo
tàng Hồ Chí Minh mà ở đó có tấm lòng thành kính say sưa của một nhà thơ, một
nhân sĩ trí thức yêu nước đã dốc lòng mang sở học của mình để làm tròn nhiệm vụ
của Cách mạng giao cho” (19).
2. Dịch phẩm Nhật ký trong
tù là của tin sáng giá nhất của Nhà thơ Nam Trân.
Gần nửa thế kỷ có lẽ là thời
gian cần và đủ để chúng ta liên tưởng sự thành công của ông với sự thành công của
Đoàn Thị Điểm trong việc chuyển từ chữ Hán trong nguyên tác của Đặng Trần Côn
sang áng thơ Nôm Chinh phụ ngâm khúc. Nói như Lê Trí Viễn, thành công của Nam
Trân là ở chỗ có “những bản dịch khiến người ta quên nguyên bản”; tuy còn dăm
ba bài thơ dịch “xa nguyên tác một chút” theo cách nghĩ nào đó, nhưng người ta
vẫn chấp nhận vì đó là bản dịch hay.
3. Chúng ta cần phải biết
ơn những học giả bậc cha ông sinh ra vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX như Lê
Thước, Trần Văn Giáp, Hoàng Xuân Hãn, Đào Duy Anh, Nam Trân, Trương Chính,… những
người đã để lại những dịch phẩm, những công trình khảo cứu sáng giá góp phần
đào tạo những người sinh ra vào khoảng những năm 30, đầu những năm 40 của thế kỷ
XX trở thành đội ngũ sáu bảy mươi tuổi biết nghiên cứu hiện nay.
Không thể quên được rằng,
năm 1965 lớp người trên dưới hai mươi, ba mươi tuổi chúng tôi khi được Nhà nước
cho học chữ Hán, thì trước mặt đã có những dịch phẩm Nhật ký trong tù (1960),
Thơ chữ Hán Nguyễn Du (1965), Nguyễn Trãi toàn tập (1964/1965?), Vân đài loại
ngữ (1961); Những công trình khảo cứu sáng giá La Sơn Phu tử (1950), Chinh phụ
ngâm bị khảo (1952), Đất nước Việt Nam qua các đời (1962)… Nghĩa là hầu hết những
tác phẩm lớn và khó trong văn học Việt Nam đã được các cụ thực hiện một cách vững
vàng, xuất sắc. Đó là những công trình bậc thầy làm nên thế hệ chúng tôi.
Cho nên, việc tôn trọng
tuyệt đối dịch phẩm của các cụ không chỉ là vấn đề đạo đức, càng không phải là
vấn đề vật chất vốn rất bèo bọt của bản quyền, mà trước hết là việc chắt chiu,
tôn trọng, gìn giữ những thành quả của tiền nhân để xây dựng cái gốc cái nền của
ngành nghiên cứu, dịch thuật vốn còn non trẻ của đất nước ta. Mãi đến năm 1959
chúng ta mới thành lập Viện Văn học. Muộn quá. Kim chỉ có đầu. Lĩnh vực nào
cũng cần xây dựng truyền thống. Cha ông vừa xây cháu con đã phá thì thử hỏi bao
giờ có được truyền thống mà dựa vào, lấy gì làm đất đứng chân.
Việc khẳng định quyền tác
giả của những dịch phẩm Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nguyễn Trãi toàn tập, Nhật ký
trong tù… vì thế, còn là vấn đề thời sự trong việc lập lại kỷ cương trong tình
hình xuất bản hiện nay, sao cho sớm ngăn chặn được tình trạng thu gom thành quả
nghiên cứu của các bậc thầy và đồng nghiệp rồi chỉ việc bỏ tiền mua giấy phép
in sách điềm nhiên ký tên mình?
Chắc không chỉ ngành văn học
mang nỗi đau này.
Đ.T.T.
Chú thích:
(1) Phan Ngọc: Câu chuyện
tác giả “Ngục trung nhật ký”, trong Suy nghĩ mới về “Nhật ký trong tù”. NXB.
Giáo dục, H, 1993, tr. 621.
(2) Theo ghi chép của Nam
Trân tại buổi làm việc với Tố Hữu từ 16 đến 18 giờ ngày 08/02 năm 1960, duyệt bản
dịch lần cuối, hiện lưu tại Hồ sơ Viện Văn học.
(3) Lời nói đầu Nhật ký
trong tù, viết cho lần xuất bản thứ ba và thứ tư. NXB. Văn học, H, 1990, (tr.
12, 13). Lần thứ nhất do NXB. Văn học, H, 1983; Lần thứ hai, NXB. Văn nghệ TP.
HCM, 1985; Lần thứ ba, NXB. Thông tin, H, 1989.
(4) Chế Lan Viên: Nhớ tiếc
Nam Trân. Tạp chí Văn học số 1/1968.
(5) Do Viện trưởng Hoàng
Trung Thông chủ trì. Thành phần dự họp, ngoài một số quần chúng ở vài ngành và
địa phương (như Tô Lân – ĐH Sĩ quan công an, cụ Phạm Công Minh – Thái Bình,
Đoàn Ngọc Phan – Nam Hà, Bùi Công Minh (Ban Văn hóa Văn nghệ thuộc Ban Tuyên
giáo Trung ương), Tô Hưng (?), thảy đều là những người có tên trong giới văn học:
Nguyễn Sĩ Lâm, Hoàng Xuân Nhị, Đỗ Văn Hỷ, Lê Trí Viễn, Đinh Gia Khánh, Bùi Văn
Nguyên, Khương Hữu Dụng, Đỗ Ngọc Toại…
(6) Theo Vũ Ngọc Khánh,
“trong cuốn Vừa đi đường vừa kể chuyện được xuất bản đúng 3 năm sau khi bản dịch
Nhật ký trong tù ra mắt, T.Lan đã dịch lại bài này bằng thơ lục bát… Ta không
có nhiều hiểu biết lắm về T.Lan, nhưng qua sách trên thì thấy đây là người gần
tác giả bài thơ chữ Hán hơn chúng ta nhiều” (Suy nghĩ mới về “Nhật ký trong
tù”. Sđd, tr. 278); nên chúng tôi cho rằng có thể bản dịch của T. Lan có dụng ý
riêng trong sự biểu đạt và có thể dịch giả có đặc quyền rộng hơn một dịch giả
bình thường nên không thể nói chỗ này dịch không sát, chỗ kia thêm vào (ví dụ:
bụi hồng, chạnh lòng nhớ ai hay Nam thiên trong nguyên tác lại dịch là cố quốc).
Nguyên tác:
Vân ủng trùng sơn sơn ủng
vân,
Giang tâm như kính tĩnh vô
trần.
Bồi hồi độc bộ
Tây-phong-lĩnh,
Dao vọng Nam thiên ức cố
nhân.
T.Lan dịch:
Mây ôm núi núi ôm mây,
Lòng sông sạch chẳng mảy
may bụi hồng.
Bùi ngùi dạo đỉnh Tây
phong,
Trông về cố quốc, chạnh
lòng nhớ ai.
Nam Trân dịch:
Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,
Lòng sông gương sáng, bụi
không mờ.
Bồi hồi dạo bước
Tây-phong-lĩnh,
Trông lại trời Nam, nhớ bạn
xưa.
Nhưng năm 1978 tại cuộc họp
cũng có ý kiến phê bình Nam Trân rằng, hai chữ bồi hồi: đi đi lại lại. Bản dịch
vẫn để bồi hồi là mất ý của Bác, không có ý là dạ bồi hồi; Dao vọng: xa vọng. Dịch
là trông lại, là mất ý.
(8) NXB. Văn học, H, 1990.
Kể cả bài Tân xuất ngục học đăng sơn (Mới ra tù tập leo núi), là 134 bài.
(9) “Có những chỗ không hiểu
sao đã tự ý chữa lại nguyên tác, như bài Tảo giải II (số 43), câu U ám tàn dư tảo
nhất không đã bị “khảo” và “đính” thành câu U ám tàn dư nhất tảo không”. Xin
xem: Con đường đi đến một bản dịch trọn vẹn “Nhật ký trong tù” tương xứng với
nguyên tác (trong Suy nghĩ mới về “Nhật ký trong tù” (bản dịch trọn vẹn); NXB.
Giáo dục in lần thứ năm, tr.284.
(10) “Dịch chưa hẳn là việc
làm sao cho đúng từng chữ từng câu, mà cái chính là phải hiểu đúng thực chất của
nội dung, thực chất tinh thần của tác giả” Bản dịch nhiều bài dịch “quả là rất
sát – sát một cách chi li, nhưng hình như đã không còn chất thơ, mà lối nói văn
xuôi nghe cũng hóa ra ngồ ngộ”. Xin xem: Con đường đi đến một bản dịch trọn vẹn
«Nhật ký trong tù… » (trong Suy nghĩ mới về “Nhật ký trong tù”). Sđd, tr.276,
77.
(11) “Người dịch:
NAM TRÂN
Phần bổ sung và chỉnh lý:
NGUYỄN HUỆ CHI – TRẦN THỊ
BĂNG THANH
ĐỖ VĂN HỶ – HOÀNG TRUNG
THÔNG”
(13) Nhật ký trong tù (bản
dịch trọn vẹn) trong Suy nghĩ mới về “Nhật ký trong tù”. NXB. Giáo dục, H,
2003. Bản in lần thứ năm.
(14) Trong bài Những điều
chưa biết về “Nhật ký trong tù» cũng như quá trình dịch thơ “Ngục trung nhật
ký” bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh của Trần Đắc Thọ (trong Hồ Chí Minh. Thơ
toàn tập. NXB Văn học, H, 2004, tr. 480), sau khi viết: Viện Văn học “giao cho
đồng chí Nam Trân cùng làm gấp với đồng chí Phạm Văn Bình để kịp sang năm 1960,
có thể phát hành Nhật ký trong tù”, và “khi sách in ra không thấy có tên mình,
đồng chí Bình hỏi Nam Trân, thì Nam Trân nói có lẽ sơ suất tại Nhà xuất bản”,
Trần Đắc Thọ viết tiếp, “Công việc chấm dứt ở đó với nỗi niềm không mấy vui của
đồng chí Phạm Văn Bình”.
Thực ra, hồ sơ lưu tại Viện
Văn học cho thấy rằng, Viện không hề “giao cho đồng chí Nam Trân cùng làm gấp với
đồng chí Phạm Văn Bình… ”, mà chỉ có một mình Nam Trân dịch. Bản “lược dịch”
thơ của ông Bình hiện lưu tại Viện và bút tích Nam Trân cho thấy, dù hết sức cố
gắng sửa một số bài dịch ra thơ của ông Bình để đưa in, nhưng từ những câu thơ
trong bản “lược dịch” của ông Bình đến những bài thơ Nam Trân công bố là một
khoảng cách khá xa. Nam Trân đã ra sức chữa cho ông, nhưng không thể thổi hồn
thơ vào những bản bẻ vần gọi là “lược dịch” ra “thơ” đó được. Mà Nam Trân cũng
biết bản dịch sẽ ghi là bản dịch của VIỆN VĂN HỌC chứ không ghi tên cá nhân nên
ông càng phải dịch cho tốt, tất cả là vì thơ của BÁC HỒ. Cho đến trước khi qua
đời Nam Trân vẫn rất vui và tự hào về việc đó. Cho nên việc ông Phạm Văn Bình
“không mấy vui” – nếu quả như Trần Đắc Thọ viết, không liên quan gì đến Nam
Trân.
Thực ra việc ông Phạm Văn
Bình rất nhiệt tình và là người đầu tiên “lược dịch” Nhật ký trong tù là chuyện
có thật và là điều dễ hiểu. Theo Trần Đắc Thọ, ông Phạm Văn Bình, là cán bộ giảng
dạy về Cách mạng Việt Nam thời kỳ 1939-1945. Khi phát hiện ra tập Ngục trung nhật
ký, ông “giao cho” Văn Phụng phiên âm, dịch nghĩa. Gặp chỗ nào ngờ, ông Bình hỏi
cụ Phó bảng Bùi Kỷ rồi bẻ vần thành thơ, lấy bút danh Văn Trực – Văn Phụng để
tri ân người dịch nghĩa giúp mình. Vậy có thể hình dung được chất thơ của bản
“lược dịch” đó.
Cũng theo Trần Đắc Thọ, ta
có thể hình dung, khi biết việc dịch thơ của ông Bình, tuy không ngăn cản nhưng
Tố Hữu biết ông Bình đang làm một việc quá sức; vì dịch thơ Chủ tịch Hồ Chí
Minh, phải trông cậy vào một nhà thơ đồng thời là người tinh thông Hán học, chứ
sao có thể yên tâm trông chờ vào bản dịch của người chỉ có lòng nhiệt tình,
nghiệp dư như vậy được. Và chắc chắn Tố Hữu đã bàn với Đặng Thai Mai. Cho nên
khi ông Bình vừa nộp bản “lược dịch”, thì Tố Hữu cho ngay xe đến đón ông để bàn
giao ngay nhiệm vụ cho Đặng Thai Mai và Hoài Thanh Viện trưởng, Viện phó Viện
Văn học đang ngồi đợi. Về Viện, Đặng Thai Mai giao ngay cho Nam Trân. Công việc
phải như vậy.
(15) Xin xem PHỤ LỤC đính
kèm bài viết [Phần phụ lục này chúng tôi chưa tìm thấy – Văn Việt].
(16) In tại phần I cuốn Hồ
Chí Minh. Thơ toàn tập. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học – NXB. Văn học, in lần thứ
nhất tại NXB. Văn nghệ TP. HCM, 2000; Lần thứ hai tại NXB. Văn học, H, 2004.
Chúng tôi theo bản 2004.
(12) Nguyên văn:
Ngũ nguyệt thập cửu phỏng
Khúc Phụ,
Cổ tùng cổ miếu lưỡng y
hy.
Khổng gia thế lực kim hà tại?
Chỉ thặng tà dương chiếu cổ
bi
Đăng Thai Mai dịch:
Mười chín tháng Năm thăm
Khúc Phụ
Miếu xưa vẫn dưới bóng
tùng xưa
Uy quyền họ Khổng giờ đâu
nhỉ?
Lấp loáng bia xưa chút ánh
tà.
Quách Tấn dịch:
Mười chín tháng Năm thăm
Khúc Phụ/ Tùng xưa miếu cũ thảy mơ màng/ Uy quyền họ Khổng rày đâu tá?/ Chỉ thấy
bia tàn bóng tịch dương.
Mai Quốc Liên dịch:
Mười chín tháng Năm thăm
Khúc Phụ/ Tùng già miếu cũ dấu chưa nhòa/ Thế thần họ Khổng còn chi nhỉ?/ Hiu hắt
bia xưa chút nắng tà.
Trần Đắc Thọ dịch:
Mười chín tháng Năm thăm
Khúc Phụ/ Lờ mờ miếu cổ với tùng xưa/ Trọng Ni thế lực giờ đâu nhỉ?/ Chênh chếch
bia xưa chút nắng mờ.
Các dịch giả và số bản dịch
tại Phần II cuốn sách như sau: Hồ Chí Minh, 1 bài; Huy Cận, 1; Khương Hữu Dụng,
3; Mai Quốc Liên, 1; Nam Trân, 1; Nguyễn Quảng Tuân, 2; Phan Văn Các, 19; Quách
Tấn, 10; T. Lan, 1; Tố Hữu, 1; Trần Đắc Thọ, 28; Xuân Diệu, 1; Xuân Thủy, 3.
(13) Việc ký tên hai người
dưới bốn câu thơ dịch thật dễ gây phản cảm. Không rõ những người dịch thơ Nga,
thơ Pháp có đề tên dịch giả như thế này không. Nhưng có điều chắc là Đỗ Văn Hỷ
và Xuân Diệu không muốn thế. Hỏi ra, mới biết rằng trong một cuộc họp, Xuân Diệu
có góp ý cho Đỗ Văn Hỷ về câu thơ đầu trong bản dịch bài Đến Quế Lâm. Góp ý được
tiếp thu. Thế là khi in sách Tiểu ban đã trân trọng đặt tên Xuân Diệu lên trên
Đỗ Văn Hỷ, ghi cuối bài thơ: “Mai Quốc
Liên: Tạp luận, NXB. Văn học, H, 1999, tr.374.
(15, 16) Xin xem Phan Ngọc:
Câu chuyện tác giả “Ngục trung nhật ký” (trong Suy nghĩ mới về “Nhật ký trong
tù”, tr. 621. (Sđd).
(17, 18) Xin xem: Nỗi niềm
tưởng nhớ thầy Nam Trân…, trong Những gương mặt trí thức Việt Nam. Tập I. NXB.
VHTT, H, 1998; tr.563-576.
http://vanviet.info/tu-lieu/ban-dich-nhat-k-trong-t-nhung-dieu-trng-thay/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét