Đọc lại 'Huế, Đẹp và Thơ'
của Nam Trân
TS. Đào Duy Hiệp
Quan niệm về thơ và sáng tạo thơ đã được
Nam Trân thể hiện thành công phần nào qua cảnh và tình của Huế, Đẹp và Thơ. Trở
lại với tập thơ hôm nay, ta hình dung được phần nào sự khiêm nhường của vị trí
tập thơ, cái ánh sao le lói trên bầu trời "Một thời đại trong thi ca"
dân tộc ngày ấy.
Sự
xuất hiện trở lại của Huế, Đẹp và Thơ sau hơn nửa thế kỷ ít được người
đọc biết đến là một động thái đáng trân trọng của NXB Hội nhà văn nhân kỷ niệm
100 năm sinh của nhà thơ cùng với lời giới thiệu trân trọng, công phu của Đào
Thái Tôn, vừa với tư cách là học trò cũ dâng nén tâm hương tưởng nhớ thầy, vừa
ôn lại nhiều kỉ niệm một thời với cả những "bão giông" của khách quan
lịch sử và lòng người. Tác phẩm gồm 37 bài, với nhiều "xô lệch" về
thể thơ, câu thơ có khi chỉ trong nội bộ một bài, đã thể hiện những nỗ lực cách
tân thơ và cả cái nhìn nhiều cảm mến của Nam Trân đối với cuộc đời. Bài viết đi
vào tìm hiểu quan niệm sáng tác thơ, hiện thực và vẻ đẹp của Huế từ những miêu
tả qua con mắt nhà thơ.
1.
Quan niệm sáng tác thơ:
Nếu
coi cả tập thơ là một "bài thơ lớn" về Huế, thì mỗi bài cụ thể trong
tập là một "câu thơ" đẫm chất Huế, chất thơ trước cái Đẹp của cố đô
cổ kính. Mỗi "câu thơ" đó là một thử nghiệm về hình thức: từ 1, 2, 3,
đến... 7 chữ/dòng, hoặc thuần lục bát, thất ngôn, hay có khi trộn lẫn, đan xen
các thể thơ trong cùng một bài. Chỉ riêng về hình thức thơ đã có thể cho thấy
những trăn trở, "phản kháng" của tác giả trước lối mòn của sáng tác
thơ.
Nội
dung của mỗi bài ít nhiều đều kín đáo hoặc trực tiếp đối thoại về thơ hoặc về
cuộc sống và đều có đề tặng một ai đó, như: ông bà Thiollier, Tạ Quang Bửu, Ưng
Quả, Phan Khôi, Đào Duy Anh, Đào Đăng Vỹ, Đoàn Phú Tứ, Thế Lữ, Trần Thanh
Mại...
Đáng
chú ý là những "tuyên ngôn" thơ của tác giả. Bài Bỏ quách lối thơ
xưa đượm vẻ gay gắt, quyết liệt và khó tránh khỏi hơi bị thô: "Theo
mãi lối thơ Đường/Hỏng, hỏng đã thấy chưa?/Nhả ra đừng nhai nữa/Những bã cặn
còn lưa". (Ngay đây cũng cần nói luôn: thơ Nam Trân thường dễ hiểu,
"thật thà", một mặt từ "định hướng" đưa hiện thực thời sự
vào thơ; phần khác, quan trọng hơn, đó là do cấu trúc ngôn ngữ thơ của cả tập
hầu như vắng bóng những ẩn dụ, hoán dụ - cái chủ yếu làm nên tính thơ).
Song,
bên cạnh sự bộc trực, trần trụi của bài trên hay ở một số bài khác, vẫn có
những bài là thơ.
Mùa
đông (Cánh đồng An Cựu) là
một bài hay không chỉ ở hình thức vắt dòng khớp với nội dung, mà còn hay ở
tình, cảnh đọng, cô đúc và hàm súc: chiều đông đìu hiu lạnh lẽo, ruộng nước
ngập mênh mông, phẳng lặng: hiệu quả gây ra tất yếu là nỗi buồn. Khoảng cách
ngôn ngữ giữa tác phẩm và người đọc gần như bị triệt tiêu. Nói như thế không có
nghĩa là tác giả không có dụng công về ngôn ngữ, mà thực ra, đó chính là từ tâm
hồn đến với tâm hồn. Trường từ vựng với những "đìu hiu", "mênh
mông", "nước phẳng", "cò đói", "yên lặng" và
kết cục bằng "đồng không" hô ứng, tạo ra trường ngữ nghĩa hàm ẩn sự
thiếu vắng âm thanh cuộc sống. Chính sự đan cài dày đặc tần suất của chúng đã
chỉ ra cái nhìn của nhà thơ và liên hệ với thực hành thơ ở mấy dòng cuối bài:
"Thi-tứ viển-vông:/Thần Tưởng-Tượng/Như đàn cò đói lượn/Đồng không.".
Ở đây, "đói" không chỉ của đàn cò mà cả của thi nhân trên cánh
đồng-thơ: quá trình săn tìm cảm xúc. Bài thơ hòa quyện giữa tình, cảnh, từ
đó dẫn tự nhiên đến quan niệm sáng tác lại được viết dưới hình thức thơ tự do,
"chao liệng" của các con chữ cho thấy quan niệm thơ không chỉ trong
nội dung mà cả ở hình hài tác phẩm.
Cả
bài Giận khúc Nam-Ai hừng hực khí thế với nhiều chấm than cùng những
ngựa với gươm "tuốt mạnh như luồng bão" và những mệnh lệnh thức kêu
gọi "Hãy đứng lên,...", "Hãy đứng dậy!" để vứt bỏ
"giọng sầu bi" của "Những câu ca không Đẹp lại không Thi"
và lời khuyên đượm chút mỉa mai vào khổ cuối: "Hãy cung-kính nhượng các
ngài tuổi-tác/Những bản đờn, dịp hát thiếu tinh-thần./Hãy ra nghe sóng vỗ, ngắm
mây vần/Rồi sáng chế cho tôi vài điệu khác".
Nhà
thơ đối thoại với người "Nhạc-sĩ" đồng thời tự nói và giác ngộ.
Thơ
hôm nay đã vắng đi những "tuyên ngôn", "nói chí" trực diện
như của Nam Trân. Nhưng bên cạnh những tâm sự "cách mạng thơ" mãnh
liệt đó, người đọc chúng ta còn gặp lại những miêu tả Đẹp và Thơ của
Nam Trân. Tôi cho rằng, đó chính lại là những thành công thực sự của tập thơ và
mới là thơ thực sự.
2.
Cảnh và tình:
Trong
Huế, Đẹp và Thơ có một vài "phác họa" đẹp về cảnh và tình
của xứ Huế bằng ngôn ngữ rất thực. Tính chất đơn âm trong thơ Nam Trân được bù
lại bằng sự sinh động của cảnh và tình xứ Huế. Những từ ngữ-chìa khóa "đặc
sản" của Huế trở đi trở lại nhiều lần: với sông, (qua đó là những
"sóng lòng" của thi nhân), với thuyền, bến, trăng (ẩn dụ cho
sự trôi nổi, bấp bênh của người phụ nữ cũng còn về những số phận, tình yêu),
còn chính người phụ nữ lại được gọi qua những đồng vị ở nhiều cấp độ: cô,
giai nhân, cô gái mỹ-miều, Tây Thi (điển tích được nhắc đến ít
nhất 3 lần), mỹ nữ, nàng, tình nhân, các chị em, cô thiếu nữ, chị, cô em,
em, kỹ nữ,...
Bên
cạnh đó, chất thơ được cộng hưởng với những phương ngữ và cả cách phát âm của
Huế, những điển tích cổ, những điệu ca Nam-Ai, Nam-Bường... đã tạo nên trường
ngữ nghĩa tràn ngập, xôn xao mà trầm lắng của Huế trong "bài thơ lớn"
về Huế, Đẹp và Thơ.
Những
địa danh của Huế xuất hiện khá dày đặc: Kim-Luông, Hương Giang,
giải Trường-giang, giòng Hương-thủy, Nam-Phổ, Trường-Tiền, Thuận-An,
sông Hương, Núi Ngự, Ngự-Bình, chùa Thiên-Mụ, Hương-Thủy, Núi
Ngự, Ngự-Bình, Diệu-Đế, Bích-Thủy, Lam-San, hồ
Động-Đình, núi Thái, Huế, trong đó "Hương
Giang" và "sông Hương" mỗi cụm từ 3 lần. Gắn bó với cảnh chung
dẫn đến tình riêng: lấy ngay bài đầu tiên Đẹp và Thơ - một kiểu
"phi lộ" cho toàn tập thơ làm ví dụ. Trường từ vựng để dựng cảnh:
"thuyền nan", "hàng phượng", "thuyền cô",
"thuyền", "vẫy chiếc chèo ngang" dẫn đến tình:
"giọt nước gieo", "đủng đỉnh", "yểu điệu",
"quấy nước trong veo", "sóng lòng còn xao". Trong bài Sóng
bạc tình nhà thơ cũng thực hiện một thao tác tương tự, sau cảnh
là tình với những "sóng Hương Giang", "lòng ai oán",
"sóng nước", "sóng tình".
Nước,
thuyền, trăng, chị
Hằng, hoa (Hồng), mưa và người nữ như những giai điệu âm
tính nổi trội trong thơ Nam Trân.
Một
vài dẫn chứng về âm tính trong miêu tả của Nam Trân gắn với "trăng", "thuyền"
và "nước" mà đôi chỗ dục tính ám ảnh từ Hàn Mặc Tử: "Ánh lướt da
cau phô vẻ trắng:/Thoạt trông còn ngỡ chiếc đùi non"; "Đêm thu trăng
tỏ nước mờ,/Chiếc thuyền bé-tí bên bờ cỏ hoen;"; chỗ khác: "Trăng lên
xóa đốm sao mờ,/Sông Hương thuyền đậu còn chờ khách xuân;" - cảnh đối lập
giữa "đốm sao mờ" trên dòng-sông-trời biến mất để soi tỏ hơn đám
thuyền đậu ế khách dưới trần gian; đôi chỗ cổ kính, trang trọng từ hình ảnh đến
từ vựng: "Theo trăng bóng vạc về rừng,/Sương thu phủ kín mấy từng thành
xưa."; "Đũa tiên gạt đổ thành Sầu/Hãm người kỹ-nữ nhạt mầu phấn
hương", như có chút gì đó Kiều hay Độc Tiểu Thanh ký,...
Bên
cạnh những bức tranh "lả lướt" đó là những hiện thực với:
"Thiếu-nữ vô-danh khóc duyên tàn"; những tiếng rao: "Chốc-chốc:
'Ai ăn chè?' " trên những nhịp cầu Tràng Tiền nóng nực; hay trong những
cơn mưa sụt sùi, có "Rải-rác, chú phu-xe/Co-ro thân mèo ướt/Lóng-ngóng các
ngã ba,/Lù-xù như gà xước" - "chú phu xe" liên tiếp được so sánh
với hai đối tượng không chốn nương thân, yếu đuối; ở một bài khác, cảnh Khiêu-vũ
1935: "Bốn cặp xôn-xao nhảy,/(Một cô nũng-nịu cười)" và kết thúc
bằng lời của một nhân vật: "Ôi! Phong-hóa suy đồi!" mà thực ra là
tiếng nói nội tâm của nhà thơ cùng với sự tha thiết nguyện ước: "Tim ta
như sợi đờn tranh/Trời sinh ra để đồng-thanh với trời,/Với mây, với nước, với
đời./Những người phận hẩm là người ta yêu".
Rải
rác trong tập còn những phát ngôn "gân guốc" như thế, nhưng cũng có
bài đã phảng phất chút gì đó chán nản, hư vô - Tôi và ta: bài thơ dài
tâm sự về cái "tôi" khi còn trên quê hương và cái "ta" mải
miết trên đường đời mệt mỏi, buồn bã và mong quên lãng... Từ không gian cội rễ,
hướng tâm đến không gian hành trình, vượt thoát, li tâm ở đây như diễn tả,
triết lí về mọi cuộc đời giống như những "cát bụi Kinh thành" trong
thơ Nguyễn Bính hay cái day dứt đầy tâm trạng trong văn xuôi Nam Cao...
3.
Kết luận:
Quan
niệm về thơ và sáng tạo thơ đã được Nam Trân thể hiện thành công phần nào qua
cảnh và tình của Huế, Đẹp và Thơ. Trở lại với tập thơ hôm nay, ta hình
dung được phần nào sự khiêm nhường của vị trí tập thơ, cái ánh sao le lói trên
bầu trời "Một thời đại trong thi ca" dân tộc ngày ấy. Mỗi thời đại có
thi pháp của riêng mình; cái đáng quý của Huế, Đẹp và Thơ là sự trong
trẻo, một cái nhìn nhân hậu, đằm thắm của nhà thơ đối với những mảnh đời và bên
dưới đó là những tâm sự, gửi gắm mà một số miêu tả đan bện giữa cảnh với tình
của ông đã rất thơ và mộng. Chúng không phải thông qua một "ma trận âm
thanh" mà là "sự trình diễn cái hiện thực mà tác giả đã thừa hưởng
vào một giai đoạn nào đó trong cuộc đời" (David Gullentops).
Hà Nội, tháng 10 năm 2007
Tham
luận tại Hội thảo khoa học nhân kỷ niệm 100 năm sinh và 40 năm mất nhà thơ -
dịch giả Nam Trân 1907-1967, đăng trên Văn Nghệ số 43 (27 - 10 - 2007)
Huế đẹp, Huế thơ
Vài nét về Nam Trân Giới thiệu Nam Trân trong cuốn sách: Thi nhân Việt Nam hiện đại Học trò trong Quảng ra thi... Nam Trân: Con người tài hoa Một số nhà văn tuổi Mùi Hà nội, Đẹp và Thơ Đường phố Đà Nẵng mang tên danh nhân: Nhà thơ Nam Trân Người đương thời thơ mới bàn về thơ Nam Trân Nam Trân - sự gắn bó giữa không gian Huế và tâm hồn thi nhân Tìm lại Huế, Đẹp và Thơ - Giới thiệu tập thơ Nam Trân Nam Trân với Huế Hành xử và đóng góp của một trí thức yêu nước Diễn văn nhân kỷ niệm 100 năm sinh và 40 năm mất nhà thơ - dịch giả Nam Trân Người Quảng trên đất cố đô Đọc lại 'Huế, Đẹp và Thơ' của Nam Trân Kỷ niệm 100 năm ngày sinh cố nhà thơ - dịch giả Nam Trân Vài thổ âm, thổ ngữ của người Quảng "Người Xô Viết" với các nhà văn đất Quảng thời kháng chiến chống Pháp (1946-1954) Người phát hiện ra Huế đẹp và thơ
01 Đẹp và Thơ - Cô gái Kim Luông 02 Sóng bạc tình 03 Vườn cau Nam Phổ 04 Huế, ngày hè 05 Huế, đêm hè 06 Huế, mưa dầm 07 Núi Ngự, sông Hương 08 Trước chùa Thiên Mụ 09 Cánh cửa 10 Mùa đông, cánh đồng An Cựu 11 Khiêu vũ 1935 12 Ngại ngùng khi bước chân ra 13 Trên núi Ngự 14 Giận khúc Nam ai 15 Hồ Tịnh Tâm hay chuồn chuồn 16 Tiếng chuông Diệu Đế 17 Khoá xuân 18 Hái hoa hồng 19 Liên tưởng 20 Nụ cười giai nhân 21Sơn còn ướt 22Cảnh quê 23Hà Nội, mưa phùn 24Nắng thu 25 Điếu thuốc cháy suông 26Anh chài tự đắc 27 Bài hát của đại phi công 28 Bài thơ nhất cú hay là nỗi khổ tâm của thi sĩ 29 Một câu thơ của ông Tú Mỡ 30 Bỏ quách lối thơ xưa 31 Eng 32 Gặp khách đong đưa 33 Cầu bạn 34 Đời người 35 Tôi và Ta 36 Chôn hoa 37Sầm Sơn trường hận
Huế
- Miền đất ẩn tàng chất liệu thi ca… Huế
đẹp, Huế thơ! Huế
thơ & thơ Huế Với
Huế hôm nay Thương
Về Huế Những
bến đò ngang Sông Hương Thơ
Hè Hương
thủy Người
phụ nữ Huế trong văn hóa Tên
những nàng con gái Huế một thuở nào Về
Huế đọc thơ anh Tạo Mèo
Huế 700
năm Thuận Hóa Phú Xuân Huế một “kho” tư liệu chưa từng có về triều Nguyễn và Huế
xưa Trụ
sở UBND thành phố Huế sẽ thành Bảo tàng văn nghệ sĩ? Hò
giã gạo Bí
mật về phi tần "hầu hạ" vua VN GS
Trần Quốc Vượng – Mấy vấn đề về vua Gia
Long
Bạn cũng có thể tham khảo một số bài viết sau đây của chúng tôi để tìm hiểu về những sản phẩm và xu hướng mới nhất của thị trường hiện nay nhé:
Trả lờiXóashop thoi trang nam dep o tphcm
Mua quần short nam ở đâu
Mua quần short nam ở đâu
ao thun nam dep nhat hien nay
áo khoác đẹp cho nam
shop Áo khoác nam đẹp
shop quần Áo nam đẹp tphcm
mua quà sinh nhật cho chồng
mua áo sơ mi nam ở đâu đẹp tphcm
mua quan ao tren mang giao hang tan noi
các mẫu quần jean đẹp cho nam
Để mua hàng các bạn vui lòng truy cập vào bruno.vn hay liên lạc qua số điện thoại 0936969694 hoặc đến trực tiếp địa chỉ 388 Phạm Hùng, Phường 5, Quận 8 để nhận hàng nhé.
Thơ của trần nam hay thật đúng là người có ăn học đàn hoàn có khác mới làm thơ hay tới vậy.
Trả lờiXóaĐịa chỉ bán sỉ đồ bộ chất lượng Lay do bo gia si o dau
Nơi cung cấp quần áo uy tín tại tphcm Chuyen si do bo nu
Cung cấp motor các loại Motor giảm tốc cũ
Bán motor chất lượng Motor giam toc cu
Một số thủ thuật bạn nên biết Thu thuat blog hay