Nam Trân

Nam Trân

Thứ Bảy, 14 tháng 4, 2018

Tiếng Thơ Bốn Mùa


Tiếng Thơ Bốn Mùa
Linh Thảo
Các nhà thơ Việt cổ điển thường làm thơ tả bốn mùa như các họa sĩ vẽ tranh tứ bình (mai, lan, cúc, trúc), nghĩa là chú trọng mô tả cảnh vật thiên nhiên hơn là tình người, như bài “Tứ Thời Thi“ của nữ sĩ Ngô Chi Lan, “Thu Điếu“ của Nguyễn Khuyến. Có chăng là “cảnh người” như bài “Ngày xuân ngẫu hứng” của Tú Xương:
     Xuân từ trong ấy mới ban ra
     Xuân chẳng riêng ai khắp mọi nhà

     Cuộc đô hộ của người Pháp làm thay đổi khá nhiều nếp sống của người Việt và sự hình thành chữ quốc ngữ đã đưa đến một nền văn học mới, chịu ảnh hưởng Âu Tây.
     Riêng về thi ca, một phong trào được dấy lên với trường “thơ mới”, vào thập niên 1930-1940, đã để lại một kho tàng phong phú thường mệnh danh là thơ tiền chiến.
     Các nhà thơ này có khuynh hướng lãng mạn, như “école romantique” ở Pháp vào thế kỷ thứ 19. Họ quan niệm tình yêu như là động lực chính để biểu hiện tình cảm của con người trong khung cảnh thơ mộng của thiên nhiên. Do đó thi ca của họ có màu sắc trữ tình lãng mạn.
     Thiên nhiên với bốn mùa, do thời tiết làm sinh động, hiện diện trong thơ họ đậm đà ý vị và đầy hình ảnh mượt mà, gợi nên từ những tâm tình yêu đương.
     Một tiếng chim, một dáng trời trong với bóng người thiếu nữ ngồi hong tóc bên song cửa là cả một niềm xuân dậy lên trong lòng nhà thơ
     Trời đẹp như trời mới tráng gương
     Chim ca tiếng sáng rộn ven tường
     Có ai bên cửa ngồi hong tóc
     Cho chảy lan thành một suối hương
 (Hồ Dzếnh - Xuân Ý)
     Mùa xuân, khởi từ ngày nguyên đán, tức là ngày đầu năm âm lịch, là mùa vui tươi nhất trong một năm. Vạn vật hồi sinh, cây đâm chồi nẩy lộc rồi hoa nở rực rỡ khắp trên cành, trong khóm lá. Nhà thơ Xuân Diệu có một cảm quan tinh vi khi thấy xuân chớm mùa, qua cỏ cây vừa sống dậy:
     Lá bàng non ngon lành như ăn được
     Trời mới tạnh mà lá mới ướt như mưa
     Lá bàng thắm trên cành phô sắc biếc
     Gió rào rào tốc mái lá còn thưa

     Tôi đi giữa buổi đầu ngày giữa buổi
     đầu xuân đi giữa buổi đầu tiên
     Thấy trước mắt cuộc đời vừa mới mở
     Và ban đầu cây với gió cười duyên.
     Với Nguyễn Bính, mùa xuân đượm vẻ tình tứ qua màu má, nét mắt của người con gái đang xuân:
     Đã thấy xuân về với gió đông
     Với trên màu má gái chưa chồng
     Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
     Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong
     (Xuân về)
     Với Nguyễn Giang thì xuân phơ phất trong những tà áo nữ sinh, trong dáng người đẹp đi qua:
     Gió xuân phơ phất thổi trong cành
     Lớp lớp bên đường bóng lá xanh
     Cây cỏ cười tươi hoa mũm mĩm
     Học sinh qua lại áo phong phanh...
     Bờ suối chờ ai chưa thấy lại
     Nhìn cô áo đẹp bước đi nhanh
     (Xuân)
     Người ta thường nói mùa xuân xanh, xuân hồng, ít ai nói đến mùa xuân chín như Hàn Mặc tử, bởi vì khi nhà thơ thấy bóng xuân sang thì nhớ đến làng quê với cánh đồng lúa chín vàng với nàng thôn nữ gánh thóc duyên dáng:
     Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
     Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
     - Chị ấy năm nay còn gánh thóc
     Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
     (Mùa xuân chín)
     Mùa xuân trên đất Việt vẫn liên quan với cái Tết, mỗi lần xuân về, Tết đến thì con người qua một tuổi đời. Và người con trai, con gái dần lớn lên với tâm hồn yêu đương bồng bột như mùa xuân đang lên:
     Muôn màu tươi sáng phấn hoa hương
     Đời ngọt ngào như có vị đường
     Tôi sống tôi say và mỗi Tết
     Lòng tơ thêm đọng chút yêu đương
     Khói pháo say người rượu ái ân
     Cõi lòng thắm nở một vườn xuân
     Nàng thơ năm ấy cười mê đắm
     Trong mắt em Nhung hiện giữa trần
     (Lan Sơn- Tết và người qua)
     Đối với Xuân Diệu thì xuân không chỉ ở thiên nhiên, xuân còn ở trong lòng người:
     Một ít nắng vài ba sương mỏng thắm
     Mấy cành xanh năm bảy sắc yêu yêu
     Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều
     Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng
     (Xuân không mùa)
     Nhất là khi nhà thơ đang yêu:
     Xuân của đất trời nay mới đến
     Trong tôi xuân đến đã lâu rồi
     Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
     Trong vườn thơm ngát của hồn tôi
     (Nguyên Đán)
     Và ngược lại, Xuân Diệu thấy mùa xuân ở nụ cười của thiếu nữ, cũng đang yêu:
     Thiếu nữ bâng khuâng đợi một người
     Chưa từng hẹn đến - giữa xuân tươi
     Cùng chàng trai trẻ xa xuôi ấy
     Thiếu nữ làm duyên đứng mỉm cười
     (Nụ cười xuân)
     Và khi yêu, nhà thơ thấy đời ngắn ngủi, qua hình bóng mùa xuân đến, mùa xuân đi:
     Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
     Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
     Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất...
     Cho nên người muốn tận hưởng hương vị của mùa xuân trong tuổi xuân:
     Ta muốn ôm
     Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
     Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
     Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
     Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
     Và non nước và cây và cỏ rạng
     Cho chếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng
     Cho no nê thanh sắc của thời tươi
     Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi
     (Vội vàng)
     Nhà thơ muốn “cắn xuân hồng” tức là muốn sống hết mình với tất cả tươi mát, thanh xuân của cuộc đời. Huy Cận thì cảm xuân như là một nguồn sống đem lại niềm vui, hy vọng và tình duyên cho con người:
     Xuân gội tràn đầy
     Giữa lòng hoan lạc...
     Hai hàng cây xanh
     Đâm chồi hy vọng
     Ôi duyên tốt lành...
     Chiều xuân tươi mạnh
     Gió bay vào hồn...
     Người cô yểu điệu
     Nghe mình nao nao
     (Chiều xuân)
     Trong khi Xuân Diệu và Huy Cận ham sống với tuổi xuân tươi trẻ, thì Nguyễn Bính nâng chén rượu xuân cay nồng chia tay với người tình:
     Cao tay nâng chén rượu hồng
     Mừng em: em sắp lấy chồng xuân nay
     Uống đi! Em uống cho say
     Để trong mơ sống những ngày xuân qua
     (Rượu Xuân)
     Người tình của thi nhân có lẽ có một số phận như công chúa Huyền Trân ngày xưa, nghĩa là bị ép uổng tình duyên:
     Hôm nay là xuân mai còn xuân
     Phơi phới mưa sa nhớ cố nhân
     Phận gái ví theo lề ép uổng
     Đã về Chiêm quốc như Huyền Trân
     Cho nên xuân về, Tết đến người đóng cửa lòng lại, dù bên ngoài hoa xuân nở rộ:
     Huyền Trân ơi
     Mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân rồi
     Giờ đây chín vạn bông trời nở
     Duy có tình ta khép lại thôi!
     (Nhạc Xuân)
     Cho dù đường tình lận đận, người ta cũng không có thái độ phũ phàng đối với mùa xuân, như Chế Lan Viên:
     Tôi có chờ đâu có đợi đâu
     Đem chi xuân lại gợi thêm sầu
     Với tôi tất cả như vô nghĩa
     Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau
     (Xuân)
     Nhà thơ đau khổ vì một nguyên nhân nào đó. Tình phụ chăng? Không. Thật ra, người chỉ thích mùa thu:
     Ô hay, tôi lại nhớ thu rồi...
     Mùa thu rớm máu rơi từng chút
     Trong lá bàng thu đỏ ngập trời
     Đường về thu trước xa lăm lắm
     Mà kẻ đi về chỉ một tôi!
     Thi sĩ yêu mùa thu mà không ưa mùa xuân:
     Ai đâu trở lại mùa thu trước
     Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
     Với của hoa tươi muôn cánh rã
     Về đây đem chắn nẻo xuân sang
     (Xuân)
     Nhưng không phải chỉ có Chế Lan Viên yêu mùa thu. Mùa thu không rực rỡ, tươi thắm như mùa xuân, nhưng có sương tỏa, trăng mờ, có lá rụng, có “tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt - Nguyễn Khuyến”, cảnh vật nhuốm vẻ thơ mộng, gợi hứng cho nhiều thi nhân...
     Cũng chính Xuân Diệu cho ta cái cảm giác lạ về mùa thu, có cái gì mơ màng, bâng khuâng, man mác ở quanh ta:
     Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
     Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
     Đây mùa thu tới mùa thu tới
     Với áo mơ phai dệt lá vàng

     Hơn một loài hoa đã rụng cành
     Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
     Những luồng run rẩy rung rinh lá
     Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh

     Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
     Phương xa khởi sự nhạt sương mờ
     Đã nghe rét mướt luồng trong gió
     Đã vắng người sang những chuyến đò...
     (Đây mùa thu tới)
Hay:
     Nõn nà sương ngọc quanh thêm đậu
     Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì
     Hư vô bóng khói trên đầu hạnh
     Cành biếc run run chân ý nhi

     Gió thầm mây lặng dáng thu xa
     Mới tạnh mưa trưa chiều đã tà
     Buồn ở sông xanh nghe đã lại
     Mơ hồ trong một tiếng chim qua
     (Thu)
     Bích Khê mô tả mùa thu với biển lá vàng rơi:
     Ô hay buồn vương cây ngô đồng
     Vàng rơi vàng rơi thu mênh mông!
     Mùa thu với lá rụng hoa tàn thường gây nỗi buồn man mác trong lòng người:
     Những chút hồn buồn trong lá rụng
     Bị nhàu ai tưởng dưới trăm chân
     Bông hoa rứt cánh rơi không tiếng
     Chẳng hái mà hoa cũng hết dần
     (Xuân Diệu - Thu)
     Nhất là khi người ta sống trong cô đơn hiu quạnh:
     Hai tay ôm lá vào lòng
     Than ôi chiếc lá cuối cùng là đây
     Quạnh hiu như tấm thân này
     Lại âm thầm sống những ngày gió mưa
     (Nguyễn Bính - Cây bàng cuối thu)
     Chẳng khác gì Verlaine ở phương Tây thuở trước:
     Et je m’en vais
     Au vent mauvais
     Qui m’emporte
     Decà delà
     Pareil à une feuille morte.
     (Và tôi ra đi
     Trong gió hắt hiu
     Cuốn tôi theo nó
     Vật vờ đây đó
     Như là
     Lá khô)
     Nhưng mùa thu vẫn là mùa thu của thơ mộng khi nhà thơ tưởng nhớ đến cảnh rừng thu mà người có dịp chiêm ngưỡng:
     Em không nghe rừng thu
     Lá thu kêu xào xạc
     Con nai vàng ngơ ngác
     Đạp trên lá vàng khô?
     (Lưu Trọng Lư - Em không nghe mùa thu)
     Mùa thu buồn nhưng vẫn là một mùa đẹp trong năm. Sương mờ, mây bàng bạc gió hắt hiu, lá rơi rụng... gây niềm bâng khuâng cho con người trước khung cảnh êm đềm, trầm lặng của thiên nhiên.
     Khác với thu, mùa đông đến với trời mây ảm đạm, gió lê thê lạnh buốt khiến hồn người ủ rũ, buồn chán.
     Hẳn không ai quên bài “Mưa dầm giố bấc” trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư” được học từ thuở nhỏ:
     “Về mùa đông, gặp khi mưa dầm gió bấc thì phong cảnh thật tiêu điều buồn bã...”, với hình vẽ một người mang tơi đội nón đi trong mưa dầm.
     Có lẽ vì vậy mà ít nhà thơ mô tả cảnh mùa đông. Trong tập “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân chỉ thấy dẫn một bài của Nam Trân, nhà thơ đất Quảng, làm việc ở Huế, tả cảnh mùa đông, một trong những cảnh ở cố đô mà thi nhân sáng tác, trong tập “Huế đẹp và thơ”:
     Lá bàng
     Như lá vàng
     Rụng.
     Ôi! đìu hiu
     Cảnh chiều
     Đông!
     Ruộng ngập: mênh mông
     Nước phẳng.
     Cò bay, yên lặng,
     Quanh đồng.
     Thi tứ viển vông:
     Thần tưởng tưởng
     Như đàn cò đói lượn
     Đồng không.
     (Mùa Đông)
     Cảnh mùa đông buồn áo não mà tình trong mùa đông cũng buồn vời vợi khi đôi lứa phải cách xa:
     Đôi mắt em lặng buồn
     Nhìn thôi và chẳng nói
     Tình đôi ta vời vợi
     Có nói cũng không cùng

     Yêu hết một mùa đông
     Không một lần đã nói
     Nhìn nhau buồn vời vợi
     Có nói cũng không cùng

     Trời hết một mùa đông
     Gió bên thềm thổi mãi
     Qua rồi mùa ân ái
     Đàn sếu đã sang sông...
     (Lưu Trọng Lư - Một mùa đông)
     Dù sao, người ta cũng thích mùa hè hơn, dù với thời tiết oi ả, nóng bức:
     Ai xui con cuốc gọi vào hè
     Cái nóng nung người nóng nóng ghê...
     (Thơ cổ)
     Nhưng cuộc sống của con người vẫn náo nức, hoạt động hơn là cái chết lặng của mùa đông.
     Cũng nhà thơ Nam Trân say mê cảnh đẹp và thơ của Huế, đã mô tả Huế với cơn lửa hạ, tiếng ve, hoa phượng đỏ - mà Xuân Diệu từng gọi là hoa học trò - trong ngày hè:
     Lửa hạ bừng bừng cháy
     Làn ma trốt trốt bay
     Tiếng ve rè rè mãi
     Đánh đổ giấc ngủ ngày

     Hoa phượng như giọt huyết
     Dỏ xuống phủ lề đường
     Mặt trời gay gay đỏ
     Nhuộm đỏ góc sông Hương
     (Huế Ngày Hè)
     Và Huế trong đêm hè:
     Trời nóng băm bốn độ
     Đèn sao khắp đế đô
     Mặt trăng vàng trỏn trẻn
     Nấp sau nhánh phượng khô

     Ba dịp cầuTrường Tiền
     Đứng dày người hóng mát
     Ngọn gió Thuận An lên
     Áo quần kêu sột soạt

     Đủng đỉnh chiếc thuyền nan
     Qua lại bến sông Hương
     Tiếng đờn chen tiếng hát
     Thánh thót điệu Nam Bường

     Với một hoạt cảnh đặc biệt:
     Hai tay xách hai vịm
     Một vài mụ le te
     Tiếng non rao lảnh lói
     Chốc chốc: “ Ai ăn chè?”
     (Huế đêm hè)
     Đó là cảnh hè ở thị thành. Ở thôn quê, mùa hè cũng điểm cho cảnh vật những nét riêng:
     Trời trong biếc không qua mây gợn trắng
     Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa
     Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng
     Lũ bướm vàng lơ đãûng lướt bay qua

     Trong thôn vắng tiếng gà xao xác gáy
     Các bà già đưa võng hát, thiu thiu...
     (Anh Thơ - Trưa hè)
     Hay là:
     Dưới gốc đa già trong vũng bóng
     Nằm mát đàn trâu ngẫm nghĩ nhai
     Ve ve rung cánh ruồi say nắng
     Gà gáy trong thôn những tiếng dài

     Quán cũ nằm lười trong sóng nắng
     Bà hàng thưa khách ngả thiu thiu
     Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm
     Đứng lặng trong mây một cánh diều
     (Bàng Bá Lân- Trưa hè)
     Dù sao, mùa hè cũng là mùa vui thích đối với những học sinh sắp được nghỉ học, sau nhiều tháng miệt mài với sách vở và mùa thi, lòng nao nức khi thấy hoa phượng nở và tiếng ve kêu:
     Sung sướng quá giờ cuối cùng đã hết
     Đoàn trai non hớn hở rủ nhau về
     Chín mươi ngày nhảy nhót ờ vườn quê
     Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ...

     Trong khoảnh khắc sách bài là giấy cũ
     Nhớ làm chi thầy mẹ đợi em trông
     Trên đường về huyết phượng nở thành bông
     Và vườn rộng nhiều trái cây ngon ngọt
     (Xuân Tâm - Nghỉ hè)

o0o

     Các nhà thơ thời kỳ 1930 -1940 có khuynh hướng lãng mạn (không bị câu thúc về hình thức và nội dung) đã dổi mới lời thơ, ý thơ, chủ yếu để biểu đạt một cảm thức mới. Vì vậy, khi mô tả thiên nhiên, qua bốn mùa, thì có cảnh, có người, có tình, ba yếu tố trộn lẫn vào nhau làm cho thơ, có hồn, gợi cảm, và yếu tố thứ ba (tức là tình) là yếu tố dễ làm rung động lòng người hơn cả.7
Linh Thảo


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét