Trên
Giòng Hương Giang
BS
Lê Văn Lân
(1931 -2013)
tản mạn
(do nhà văn Trần Thị
Lai Hồng gửi)
http://www.gio-o.com/Chung/LeVanLanTrenGiongHuongGiang.htm
Thơ tiếng Pháp về Huế tựu
trung có vài tác giả đã đăng nhiều sáng tác trong Tập
san Đô Thành Hiếu Cổ
hay Đặc san Những Người Bạn Cố đô Huế ( Bulletin Des
Amis du Vieux Hué – viết
là BAVH ) nhưng có tiếng với độc giả Việt nam chỉ có hai người: đó là Henri
Guibier và Henri Cosserat.
Henri Guibier có một
bài duy nhất được giới trí thức Việt Nam trước đây hâm mộ và truyền tụng, cũng như
đã dịch ra thơ Việt Nam. Tựa đề bài thơ Nocturne Sur Le Fleuve
Des Perfums (1).
Nhà thơ Lệ Chi Nguyễn Vỹ
đã dịch bài này ra thơ Việt, nhan đề “Điệu hát trên sông Hương”. Ông cố tình xử
dụng các âm điệu êm (hay ênh)… và ái.
Thi sĩ Song An Thái
Thúc Diễn cũng dịch bài này với nhan đề “Đêm trên giòng Hương Giang” nhưng lại vận
dụng những âm sắc gần giống với sắc nguyên tác của Henri Guibier đó là I…và ưa. Ở đây
chúng tôi không dám lạm bàn về phẩm chất và thể thơ, ngôn ngữ cũng như lột ý của hai
bài dịch. Tuy nhiên trên phương diện nhạc tính, bài dịch của Thái Thúc Diễn thành công
hơn mặc dù một hai tiểu khúc sau vì kẹt vần Việt ngữ, ông phải thay âm ưa bằng âm khác như ớ…
và ư nên âm hưởng kém đi không giống âm sắc ướt át và hơi rung lưỡi của âm vận
EUR trong Pháp ngữ ( douleur, douceur, rameur, coeur, langueur) vốn phát âm từ cuống cổ
rồi láy nhè nhẹ qua sự rung chuyển của lưỡi gà trên mạng khẩu cái … nghe giống như âm
thanh của vĩ cầm…
Bài Nocturne của
Henri Guibier đượm một màu lãng mạn ướt át, sâu thẫm qua hình ảnh một mảnh hồn đau bầm dập
(âme meurtrie, âme en sa douleur), một con thuyền ngái ngủ (barque endormie), một
mái chèo đều, khe khẽ, một vầng trăng tái nhợt… nên đã đáp ứng phong trào lãng mạn
thời thượng ở Việt Nam của thập niên 20 với những tác giả như Tương Phố (Giọt lệ
thu), Đông Hồ, Hoàng Ngọc Phách (Tố Tâm)…
Tác giả thứ hai làm thơ
về Huế là Henri Cosserat dưới bút hiệu là Henri de Rouvroy đăng trên Bulletin des Amis
du Vieux Hué BAVH.
Tác giả là giáo sư trường
Trung Học Khải Định trước năm 1945. Tôi chỉ bắt đầu học trường này vào cuối năm
1945, nên không được học môn vạn vật với thầy Henri Cosserat. Nhưng vào năm 1952 tôi
được thầy chỉ dạy về môn thực tập Hóa Học ở lớp Sinh- Lý- Hóa (P.C.B) tại
Đại học Khoa học Saigon.
Dáng dấp cao, thường ít
nói và mặc áo bốn túi màu nhạt. Đó là kỷ niệm tội còn nhớ về vị thầy cũ này. Thời đó
tôi tuyệt nhiên không biết ông là một thi sĩ đã làm thơ về cố đô Huế… mà chỉ biết ông là một
ông thầy có bằng cử nhân Khoa học. Tuy nhiên có vài người bạn tiết lộ Ông Henri Cosserat
là một ông Tây nói tiếng Huế với một âm sắc đặc thù Huế, một thứ tiếng Huế chay! Vì ông
già là Tây thiệt, còn bà già là người Huế.
Tôi chưa được nghe thầy
Henri Cosserat “nói tiếng Huế” nhưng tôi bỗng có cảm tình tự nhiên với thầy…Một ông
Tây mũi cao, mắt xanh nâu đùng đục dù là chỉ có 50 phần trăm máu Pháp mà nói tiếng
Huế là một kỳ quan với tôi rồi.
Henri Cosserat, trên
tên họ là một người Pháp- nhưng tâm hồn ông vì có giòng máu Việt của bà mẹ người Huế -
nên đã “Huế chay”… Huế đến nỗi dân Huế chánh gốc 100% chưa hẳn bì kịp. Ngôn ngữ của
ông trong thơ là một ngôn ngữ minh bạch, tinh tế, nhã lịch của Pháp văn.
Bài cố đô Huế ( Huế ) số
1
Tôi thấy Huế ngủ mơ
trên bờ mộng
Chốn Cố Đô bao phủ ngọc
xanh lam
Thành lũy, hào tường mạnh
dày ngạo nghễ
Tôi đã nhìn tỉnh giấc
Huế hừng đông.
Tôi lại chọn- như tay
sành cổ ngoạn
Tranh bình minh tươi phấn
rộn lòng tôi
Để ngắm Huế - nàng góa
chồng tím rạn
Vén khăn “voan” sương
trong phủ tháng tư.
Henri Cosserat đã thâu
qua thấu kính của nhãn cầu mình “màu xanh của Huế” mà ông đã sánh với màu xanh của
những viên Lục Quế Ngọc (BeAl2Si6O18) Beryllium aluminum Silicate…(Minerals of
the world, tr. 175). Gia đình Lục Quế Ngọc thường có giai phổ về sắc lục như lục sẫm của
Lục Trụ Thạch (aquamarine)… Muốn thấy màu xanh này, ta phải nhìn tận mắt những hình
màu về ngọc mới rõ được. Henri Cosserat là một giáo sư dạy về vạn vật nên ông nói
rất chính xác về vật thể đất đá hoa lá, dù là trong thi hứng. ( Bạn Nguyễn Cúc đã nhắc lại
kỷ niệm về thầy Henri Cosserat, tr.60 Tiếng Sông Hương T.S.H) Nhớ hình dáng thầy, người
cao cao, nhẹ nhàng, thanh thoát, nhớ vẻ mặt nghiêm trang nhưng từ ái của thầy, thu mình
trong chiếc áo blouse màu trắng. Giờ vạn vật nơi giảng đường thầy mân mê từng ngọn lá, nhánh
cây hay lễ mễ cầm từng miếng nham thạch, từ thạch trong khi giảng bài với tất cả nhiệt
tình của một vị thầy tận tụy với thiên chức.
Tả cái xanh của nước giòng Hương giang, ông đã
viết một cách không mơ hồ bằng tỉ dụ của
một người sành đồ cổ và hiểu biết lịch sử cố
đô.
Xanh tuyền xanh như
lưng bình sứ mỏng
Giòng nước Hương… ngự
chế bút thư văn
(Trên Hương Giang / Sur
le Rivière des Perfums)
Cái xanh của bình sứ ám
chỉ là cái xanh màu men xanh Huế (bleu de Huế) mà các tay chơi cổ ngoạn thường phân biệt
với màu xanh men ( bleu de chine).
Sur le fleưve embaumé…
chanté par tant de roi (Giòng nước Hương… ngự chế bút thi văn).
Cái chính xác của câu
thơ trên có thể chứng minh bằng tập “Ngự chế Thi tập” của vua Thiệu Trị (1841) với
bài Hương Giang Hiểu Phiếm (Buổi sớm Chèo thuyền trên Sông Hương) hay thơ của các
ông hoàng Tuy Lý và Tùng Thiện Vương ca tụng cái đẹp của giòng Hương.
Màu xanh của sông Hương
– hơn một lần trong các bài viết về Huế- được nhắc như một hiện tượng độc đáo. Nước
sông Hương nhiều lúc thật trong suốt để ta nhìn thấy đám rong xanh đen dày mọc dưới
đáy. Màu xanh của Sông Hương là do màu rong ở đáy phản ảnh lên hay do da trời
thiên thanh chiếu xuống vào những ngày đẹp trời. Tại đâu thì chưa ai phân biệt được, tuy có
một điều Cố Đô Huế mà thiếu sông Hương xanh, Huế sẽ hết là Huế !
Thơ của Henri Cosserat-
theo tôi nhận xét là những bức “thi trung hữu họa”. Ông làm những bài thơ về Huế
khoảng 1927. Về sau này trên thi đàn Việt Nam khoảng 1930 – 1945 mới xuất hiện nhiều cây
bút biến bài thơ mình thành những bức tranh đẹp, như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Nam Trân,
Đoàn văn Cừ.
Đọc vài đoạn thơ cửa
Đoàn văn Cừ làm ví dụ, tôi bèn thấy Henri Cosserat và Đoàn văn Cừ giống nhau ở điểm nhận
xét rất tinh lại sẵn hồn thơ phong phú.
Huế là nơi hình ảnh của
lụa là, châu ngọc được làm bối cảnh. Henri Cosserat không ngần ngại đem những thứ vải
quí vào thơ như lụa, sa tanh, nhiễu…
Màn đêm êm du thuyền
đen chèo khẽ
Lững lờ trôi nước mịn
nhiễu vàng soi
Chữ “moires des eaux
d’or ” rất khó dịch.
Moire (gọi tiếng Anh là
mohair) là một thứ vải có màu óng ánh, làm bằng cách cán những sợi vải qua một máy cán
đặc biệt, tạm dịch là nhiễu.
Phương đông rạng, kìa
bóng đêm lui bước
Và da trời dịu sắc tựa
“sa tanh”
Sa tanh – đúng ra gọi
là nhiễu Tàu vì được sáng chế đầu tiên tại một xứ bên Tàu gọi là Zay tùn (?) có mặt hàng rất
láng, sờ rất mát dịu tay.
Rất giống Hàn Mặc Tử
hay Nam Trân hoặc các thi sĩ khác sống ở Huế, Henri Cosserat rất tinh tế khi đem những
thực tại của địa phương vào thơ.
Đọc thơ của Hàn Mặc Tử
qua câu: “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”, dân Huế hiểu thấm thía hơn dân khác.
Và đây là điểm mà tôi nghĩ rằng những độc giả - gốc Huế hay đã từng ở Huế thật lâu - mới
có thể nhận ra. Henri Cosserat đã sống với cha mẹ suốt thời thơ ấu như giọng nói Huế của
ông đã chứng tỏ, và ông đã nhìn cảnh Huế với một cái nhìn riêng của dân Huế.
Ở Huế, sông Hương, núi
Ngự ai ở đâu cũng biết. Nhưng có ngọn núi thật cao hơn núi Ngự Bình gọi là núi Thiên
Thai ở phía Đông Nam Đàn Nam Giao, dưới chân núi có chùa Thiên Thai Tôn Tự thì chỉ dân
Huế mới biết tên.
Nguyễn Du thời làm Tham
Tri Bộ Lễ ở Huế có bài thơ sau:
Vọng Thiên Thai Tự
Thiên Thai sơn taị Đế
Thành đông
Cách nhất điền giang tự
bất thông
Cổ tự thu mai hoàng diệp
lý
Tiên triều tăng lão bạch
vân trung
(Thành vua, đông có núi
Thiên Thai
Cách giải sông như khó
tới nơi
Chùa cổ lá vàng thu phủ
kín
Triều xưa mây trắng sãi
già rồi)
Ngoài ra còn nhiều ngọn
đồi núi khác làm cái viễn cảnh cho cảnh trí Huế. Ngoài núi Ngự Bình ( Bằng Sơn), núi
Thiên Thai, còn có đồi Thiên Ân, núi Vưng, núi Kim Phụng …
Henri Cosserat đã đem
cái viễn cảnh núi non này vào thơ khi ông ngắm cảnh chiều trên sông Huơng. Ngọn núi
Thiên Thai này vì cao và ở xa, thật xa, nên dân Huế đều thấy cả so với núi Ngự chỉ cao có
khoảng 100 thước chỉ thấy gần. Đặc biệt trên sườn núi này cũng như trên những sườn núi
mầu lam thẫm của dãy Trường Sơn làm một viễn cảnh khác ngăn cách Huế với Lào, buổi
tối có những đóm lửa đỏ cháy rừng do thông khô bốc lửa hay lửa của các lò hầm than.
Nhìn viễn cảnh … sườn non
phô đủ sắc
Đám lửa rừng bò tỏa tựa
hồng châu
Đính trang sức áo rừng
lam tưởng mặc
Màu xanh tím của rừng
núi Trường Sơn là một màu xanh bí hiểm, rất gợi nhớ, thay đổi không chừng dù trong một
ngày như sang xanh, trưa vàng, chiều tím ( Huế Cố Đô – Thái văn Kiểm)
Dãy núi tím bổng thay
màu xanh ngắt
Rồi xóa lần trong giờ
khắc nhá nhem
Âm thầm cảnh vật vào
đêm
Vết ráng đỏ, tiếng còi
xa cùng tắt
( Huế đẹp và Thơ - Nam
Trân )
Ta thấy Henri Cosserat
đã tài tình dùng các chữ rubis (hồng bảo ngọc) đính (sertir) trên áo rừng lam (bleuâtre
manteau des forêts), màu nhớ (nostalgique).
Ông cũng nhắc đến những
viên Hồng Bảo Ngọc trong câu tả mặt nước sông Hương vào bình minh:
Nhìn xa xa ngọc châu hồng
ngấn nước …
Ông đã so sánh những điệu
hò Mái Nhì, Mái Đẩy kéo dài chậm rãi trên sông Hương như tiếng thông reo, rất
quen thuộc lỗ tai dân Huế
Những câu hò … thông
reo khoan gió lướt…(chanson des pins), nhắc ta câu Kiều:
Tiếng khoan như gió thoảng
ngoài.
Tiếng gió thoảng qua những
ngọn thông có lá như những cây kim , làm ta nhớ đến câu thơ của Tuy Lý Vương ta có
thể dịch rất đắc ý là:
Những điệu hò… “tùng
thanh” khoan gió thoảng hay dịch cho có vẻ Đường thi là:
Những điệu hò … “phong
suy tùng diệp” thoảng
Càng đọc kỷ thơ của
Henri Cosserat tôi lại càng nhớ Huế một cách quay quắt, vì ông đã nhắc đến một chi tiết rất
nhỏ. Đó là những con nhện ở Huế, trong bài Bình minh Trên Sông Hương. Ông tả cảnh ghe
thuyền bắt đầu di chuyển nhộn nhịp trên sông Hương vào buổi bình minh như sau:
Khắp giải Hương… còn
ngái nồng giấc điệp
Bao thuyền ghe đã tưng
bừng nhộn nhịp
Nương ánh ngày… giăng
túa nhện trên sông…
( Aube sur le Hương
Giang)
Ủa tại sao lại giống
như nhện vậy ?
Henri Cosserat gọi nhện
này “étranges araignées”.
Không biết tôi có tưởng
tượng mà tán ra thái quá chăng? Ở Huế nhất là ở các ao hồ, như hồ Tịnh Tâm, hào Hộ thành,
hay vùng Ao Hồ … có một loại nhện nước mình nhỏ xíu, chân dài nghêu … chạy trên mặt
nước rất nhanh khi bị động… gọi là con cất vó vì mấy chân dài của nó giống cái gọng vó bắt
cá hay còn gọi là con phù du hay con vờ… ( xin quí vị cao minh chỉ giáo cho). Hình ảnh của
các ghe thuyền di chuyển trên mặt sông có lẽ gần với hình ảnh của loài nhện nước chạy túa
ra trên mặt nước, hơn là nhện nhăng tơ.
Và một điểm nữa là có lẽ
những người ở Huế cũng sẽ đồng ý với tôi đó là màn sương trên sông Hương hay dọc hai
bờ.
Màn sương đó vào tháng
tư thì hơi dày đặc thành mù (brume) mà Henri Cosserat tả như tấm mạng che đầu của sương
phụ … Mùa hè ở Huế thật nóng, nên các thành quách xây bằng gạch hút hơi nóng ban ngày để
từ nhả ra vào lúc trời chiều dịu lại, do đó thành mù… mà Henri Cosserat mô tả giống
như sương lụa nhẹ mong manh (Soierie à la fragile frame).
Còn trên mặt sông Hương
có màn khói sóng màu lam vào buổi bình minh:
Trời pha lê phơi trần
và trong vắt
Dưới gầm trời đượm ngắt
một màu xanh
Của khói nước mà bình
minh tắm ngập…
(Aube sur le Hương
giang)
Nguyên văn: Vapeur
d’encens tạm chuyển ngữ là khói sóng như: “ trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” để có chất
thơ, kỳ thực nó là hơi nước bốc có mùi thơm nhang, dịch là yên ba (khói sóng) quyện mùi
hương nhang trầm của nó.
Về sau thi sĩ Nam Trân
cũng nhắc đến luồng khói trên sông Hương trong bài Trước Chùa Thiên Mụ:
Êm êm dòng nước Hương
Giang chảy
Xúm xít thuyền
con chỗ ba bảy
Tiếng hát ngư ông đẫm
bóng cây
Như luồng khói nhẹ,
lên, lên mãi…
Và Xuân Diệu - người gốc
Hà Tĩnh - học ở Huế, làm thơ cũng lấy thi hứng từ sương khói của cái đất mộng mơ nhung lụa
này.
Sương khói theo trăng
ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên
chơi vơi.
(Nhị Hồ)
Hư vô bóng khói trên đầu
hạnh
Cành biếc run run chân
ý nhi.
(Thu)
Mầu da trời ở Huế mà
Henri Cosserat tả là trời pha lê (cristallin) phơi trần (nu) và trong vắt (transparent), thì Xuân
Diệu về sau cũng tả là:
Lung linh bóng sáng
cũng rung mình ( Nguyệt cầm )
Mắt của Henri Cosserat
cũng giống như máy chụp hình, chụp thực tế với những khía cạnh sắc nét. Ông tả vầng trăng
cũng độc đáo như một bức tranh Tàu chấm phá:
Vầng trăng thanh thấp bừng
chân đồng nội
Móc lung đăng trên mái
cổ chạy rồng
Fanal trong nguyên văn
chỉ cái đèn hiệu của tàu bè đồng thời cũng chỉ cái lồng đèn (lanterne quelconque, theo
Larousse).
Nếu thi sĩ Vũ đình Liên
về sau khen cái ngọn bút lông viết chữ Nho của ông Đồ với câu:
“ Hoa tay thảo mừng nét
Như phượng múa rồng
bay. (Ông Đồ)
Thì Henri Cosserat khoảng
1927 đã diễn tả không kém phần bay bướm với những chi tiết chính xác:
Bút lông mềm chậm rãi của
nhà Nho
Dáng đấm đuối ngắm nhìn
bao nét thảo
Phong nhã lượn bút hoa
đua rộ nở
( Ngọn Bút Lông )
Văn phòng tứ bảo trong
cung vua cũng được nhắc đến đúng với chất liệu cấu tạo hoặc màu sắc nguyên thủy như: Bút
vàng lông thỏ mịn, Bút tre, Bút hổ phách, Nghiên ngọc Bích. Mực vàng, giấy trắng mịn như bột
gạo ( papier de riz/ giấy quyến )
Ngay cả khi nói đến vua
Tự Đức ông cũng không quyên cái tật “ Mê nôm Thúy Kiều “ và ngón tay có móng lá lan trau
chuốt của ngài !
Nghệ thuật hiện thực của
Henri Cosserat đã lên cao độ nhất với bài Ngài Ngự (Le Roy). Bài này tả đám rước Tế Nam
Giao phát xuất từ Đại Nội, khởi hành từ cửa Ngọ Môn rồi đi lên đàn Nam Giao.
Với con mắt quan sát
tinh tề nhưng phong phú hòn thi, Henri Cosserat đã viết tiểu khúc đầu của bài thơ với những
chi tiết cực kỳ linh động:
Ngài Ngự ( Le Roy )
Aux sons d’une musique
au frêle tintamarre
Le cortège royal
déroule ses anneuaux
Le peuple est dans la
rue, un peuple qui s’êffare
Au soleil éclatant de
ce matin trop chaud
Trong thanh âm nhạc
hành thanh thót nhẹ
Đoàn đạo ngự duỗi khúc
chuyển mình đi
Đám thần dân bên đường
hao hức ngắm
Nắng chói chan sớm nóng
quá làm ri.
Đoàn đạo ngự không diễn
hành trong âm điệu í… o du dương của phường bát âm gồm kèn, sáo, trống v.v… mà là
“Trong âm điệu nhạc hành thanh thót nhẹ” của tiếng trống lẫn tiếng chiêng mà ông mô tả bằng
chữ musique au frêle tintamarre !
Theo tự điển Larousse,
tintamarre là những tạp âm chát chúa gồm những âm thanh đối chỏi nhau. Tintamarre nguyên
gốc theo tự điển Larousse là do chữ tinte, tượng thanh chỉ tiếng chuông. Tôi tạm dịch bằng
một chữ vật tượng là thanh thót hay inh ỏi. Âm trong trẻo kim loại của tiếng chiêng (kim
âm) hòa với âm đục trầm vang dội của da trống (cách âm) được gói trọn vẹn trong chữ tinte
(trong cao), marre (đục trầm), diễn tả sự đối chọi trong hòa âm. Nếu trong truyện Kiều có câu:
Trong như tiếng hạc bay
qua
Đục như nước suối mới
sa nửa vời
Thì trong chữ
tintamarre của Henri Cosserat:
Trong như chiêng đánh
vang xa
Đục như tiếng trống dồn
ra phương trời
Trong mắt của Henri
Cosserat đạo ngự khởi hành gợi hình ảnh một con rắn nằm cuộn mình từ từ duỗi khúc để bò đi,
qua câu tả:
Le cortège royal
déroule ses anneaux !
(Đoàn đạo ngự duỗi khúc
chuyển mình đi) – Coi bài Le Roy số 4
Dân chúng ai cũng háo hức
ngây người (s’effare) đứng coi rước Nam Giao vì ba năm mới có một lần tế. Đám rước khởi
hành từ Đại Nội vào khoảng 7 giờ sáng và đi lên đàn Nam Giao khoảng 12 giờ trưa. Thời
tiết vào tháng trọng xuân ở Huế -cỡ các tháng 3-4 dương lịch- bắt đầu nóng. Dân chúng vừa
nóng ruột coi rước, vừa bị cái nóng của thời tiết.
Nắng chói chan… sớm
nóng quá làm ri !
Au soleil …
Họ háo hức coi rước nên
thấy đám rước diễn hành tới đâu … là họ reo lên tới đó… tê… tề… tê… tề…
Henri Cosserat đã cho
cuốn phim quay đoàn rước Nam Giao đệm với những chiêng, trống lẫn các tiếng hò reo háo hức,
hớn hở của đám thần dân.
Voici… et voici… lập
đi lập lại 5 lần trong các tiểu khúc…
Ngũ lôi cổ là 5 thứ tiếng
có âm sắc, tiếng dội như sấm; đồng bát là cái xập xỏa bằng đồng tạo ra một thứ âm thanh
chan chát vang dội của âm kim khí và âm da mặt trống … nên Henri Cosserat dùng chữ
Fanfare … mà tôi tạm dịch cho sát ý là cổ bạt.
Tề, các quan mão cao,
đai phẩm phục
Dáng đường bệ bước đều
chân cử bộ
Tề, tề nữa diễn hành
theo cổ bạt
Lính cấm cờ dàn rước
các quan Đô
(Le Roy )
Và nhân vật mà đám dân
chúng háo hức muốn coi nhất là Ngài Ngự. Đây là giây phút hồi hộp mà dân chúng háo hức
nhưng từ từ… chầm chậm muốn coi…
Tề tề nữa… kiệu đen
vàng thiếp lóa
Kính sùng thay… da Ngự
phớt màu ngà
Dưới tàn quạt nhẹ nhàng
phe phẩy chậm
Dưới lọng cao… nghi vệ
của nhà vua
Vẻ đơn giản tịnh chay
và oai khiếp
U linh tỏa chung quanh
nơi: Ngài Ngự !
Câu kết trong bài Trên
Sông Hương đượm một vẻ cực kỳ lãng mạn, mơ mộng:
Nước lịm tiếng, ve sầu
hoang dại hát !
Như thuyền mơ hư ảo thả
rong trôi
Chở hồn tôi lạc vào
muôn sen nhạt.
Nhưng có lẽ làm tôi xúc
động nhất là sự khiêm cung của tác giả- tự coi mình là bé mọn (petit) trước cái quá khứ huy
hoàng vĩ đại của Đế đô.
Ông coi Huế như một cái
hòm thánh cốt (châsse) đặt trên bàn thờ ( nhưng tôi xin dịch thoát ý với một chữ Việt Nam là
Khám thờ) mà ông khum người vái lạy.
Huế khám thờ thiên thu
nằm yên nghỉ
Những bảo châu từ quá
khứ truyền kỳ
Tôi- bé mọn- bái tôn hồn
linh đế.
Và đứng trước màu đỏ của
mặt trời đang lặn ở phương Tây… Henri Cosserat có một tinh thần hoài vọng thâm trầm về
quá khứ của Kinh Thành Huế
Ôi Đế đô… kìa thái
dương đỏ ráng
Ở đoài phương bừng bực
lửa vinh quang
Huế dĩ vãng hồi sinh từ
lăng tẩm.
Cái mầu nắng của đất Thần
kinh Huế cũng là một hiện tượng đáng để ta dừng lại với vài ý nghĩ. Dọc hai bờ sông
Hương cây phượng trồng nhiều đã khiến mặt trời mùa hè ở Huế đã đỏ lại đỏ thêm:
Huế phượng như giọt huyết
Dỏ xuống phủ lề đường
Mặt trời gay gay đỏ
Nhuộm đỏ góc sông Hương
( Nam Trân / Huế ngày
hè )
Cái nắng ở Huế buổi
bình minh do mặt trời ló dạng ở biển Đông hồng tươi nên Henri Cosserat so với màu tươi của
tranh phấn tiên (pastel) nhưng cái ráng chiều của tà dương sau dãy núi Trường Sơn phía Tây thì
ráng đỏ rực đẹp vô cùng …
Và một điểm càng chứng
tỏ Henri Coseerat lấy thi hứng từ hiện thực vì các lăng tẩm của vua đều xây ở phía Tây cả.
Ở đoài phương, hừng hực
lửa vinh quang
Huế dĩ vãng hồi sinh từ
lăng tẩm
Ráng ( chữ nho là Hà )
có màu đỏ rực như câu “áo chàng đỏ tựa ráng pha” sở dĩ có màu rực rỡ là vì ánh nắng mặt
trời chiếu xuyên qua lớp khí quyển có mù sương nằm thâm thấp ở chân trời. Khí núi Trường
Sơn đã làm cho cái ráng chiều ở Huế đẹp vô cùng với các màu sắc trong quang phổ được phát huy
ra.
Năm bài thơ của Henri
Cosserat đã viết vào năm 1927, nghĩa là cách đây 85 năm, trong mắt tôi là những “bảo
châu” kết tinh từ lòng thương mến đất Huế của một người có hai dòng máu
Pháp Việt …
Trước khi qua đời tại
Nice ở Pháp, giáo sư Henri Cosserat đã viết cho bạn Nguyên Hương Nguyễn Cúc mấy giòng
tâm tình sau về những bài thơ trên:
“Những bài thơ này đã
xuất hiện dưới bút hiệu Henri de Rouvroy (Hanri Cosserat). Con người thanh niên của tôi thuở
đó đã từng nhạy cảm trước vẻ quyến rũ của Huế và giòng sông trứ danh của nó (Les
poèmes ont paru sous le nom de Henri de Rouvroy ( Henri Cosserat ) le jeune homme que j’étais, déjà
sensible au charme de Huế (sic) et de son cèlèbre Fleuve !”
( Nice, le 9 Juillet
1990 )
Lời tâm tình của Henri
Cosserat về Huế diễm lệ trước khi qua đời – cũng chính là lời tâm tình của chúng ta - những
người Việt hay nói chính xác hơn, những người đã từng sống ở Huế - đều cảm thấy nhưng nói
không ra … Có những cảnh đẹp của quê hương – lúc còn bên nhà - mắt ta thấy quen hàng ngày nên
nhàm chán, nhưng bây giờ sống tỵ nạn tha hương, dĩ vãng bắt đầu réo gọi những kỷ niệm xa vắng
của thời niên thiếu - giống như những hạt nếp, trái nho được ủ kỹ với thời gian - bỗng dậy
men làm tâm hồn chúng ta bồi hồi xao xuyến. Từ đấy tâm tư lắng đọng của chúng ta lại có dịp nổi
lên nhiều cái bọt champagne kỷ niệm, ta tiết nuối cái quá khứ vàng son… Do đó, những bài thơ của
Henri Cosserat - viết cách đây già nửa thế kỷ - được chúng ta đón nhận như kẻ giữa sa mạc được
gặp nguồn nước quí giá.
Nhưng tôi lại tự hỏi tại
sao trước đây cảnh trí của cố đô Huế đẹp diễm lệ đã từng làm xao xuyến bao nhiêu thi
nhân mặc khách… nhưng lại ít người biết hay dịch ra thơ Việt những bài thơ hay tả về Huế với
những nét linh động và trữ tình của Henri Cosserat, để đến nỗi những bài thơ này đã là những tờ
giấy cũ vàng nằm yên ngủ trong 85 năm trong kệ sách của ông, nếu bạn Nguyễn Cúc không có dịp
liên lạc với thầy cũ Cosserat của mình.
Tôi lại nghĩ thơ văn
hay- cũng như người tài – có thể lâm vào trường hợp: bất phùng cảnh, bất phùng thời… nhìn vào thời
điểm thơ của Cosserat tả về đất Đế Đô cũ với những nét hiện thật đẹp, sống động và một hồn
thơ phong phú đã được sáng tác bằng Pháp ngữ, đăng trong “cái tháp ngà” bác học,
thông thái của tập san Đô Thành Hiếu Cổ năm 1927 !
Yếu tố ngôn ngữ và
trình độ thưởng ngoạn quả là những hàng rào vây quanh. Ở thời đại nào, thơ dù có phổ biến cũng
kém người đọc huống hồ chi thơ của ông bị khép kín sau những hàng rào trên … Các bậc trí
thức đọc tập san Đô Thành Hiếu Cổ để tìm lại những tài liệu về di tích cổ của Huế, chắc cũng
có vị thấy cái hay trong thơ Henri Cosserat như trong bao nhiêu bài thơ trong văn chương Pháp,
nhưng dịch ra thơ Việt cho quần chúng Việt Nam thuởng lãm là một vấn đề về cảm quan cũng
như về ngôn ngữ, vào cái thời điểm 1927…
Lối thơ tả hiện thực
còn quá xa lạ với cảm quan của độc giả Việt Nam vào thời cuối thập niên 20 thế kỷ trước… Nguời
ta phải chờ đến giai đoạn Thơ Mới (1932-1941), với lối tả hiện thực mới xuất hiện với Thế Lữ,
Xuân Diệu, Anh Thơ, Đoàn văn Cừ v.v…Những bức tranh trong thơ cũ của Việt Nam chỉ
đơn sơ vài nét như các bức tranh xưa của Á Đông, còn những bức tranh trong thơ Henri
Cosserat là một mô tả chứa đầy những chi tiết thực tại, có màu sắc linh hoạt.
Bài thơ “ Chơi Huế ”
(1919) của Tản Đà là một bài liệt kê sơ lược vài cảnh Huế mà thi sĩ đã thăm, lối tả phơn phớt
màu sắc mà chủ ý là gói ghém ít tâm tỉnh:
Giòng sông trắng, lá
cây xanh
Gió vờn mặt nước, sóng
tình đầy vơi.
Độc giả muốn hiểu rõ tại
sao cùng giòng sông Hương mà Tản Đà cho là giòng sông trắng còn Á Nam thì thấy một giải
xanh xanh.
Đến bà Tương Phố, trong
Bến Cũ (1930), cũng chỉ vẽ ra một bức tranh Huế, mơ màng để có dịp tuôn ra những giọt
lệ, tiếc thương quá khứ.
Mơ màng An Cựu bóng đò
xưa
Xuôi ngược thuyền ai nước
hững hờ
Đỉnh Ngự, sông Hương lời
ước cũ
Thông reo, trăng rọi tưởng
bao giờ
Cụ Ưng Bình Thúc Gia Thị,
“Dạo chơi hồ Tịnh Tâm” (1939) đã ghi cảnh trí một cách điển ước như sau:
Cây cổ thụ cũng mừng
thêm một tuổi
Gành Châu đảo tiếng con
chim học nói
Cái lối tả cảnh theo điển
ước rất thích hợp theo tinh thần Việt Nam, vì người mình không ưa lối nhìn tách bạch rõ rệt
của Tây phương mà các cụ cho là trâng tráo, nặng nề tách bạch, hở hang… các cụ thích tìm
một sự đối ngẫu… cảnh nào thì phải đi đôi với hiện tượng đó hoặc ý tình gì. Các cụ thời đó
thích hạn chế sự miêu tả, và dừng lại không tiến xa hơn để phân tích thế nào là Giòng sông trắng,
lá cây xanh.
Thời đại nào thì cảm
quan đó. Cảm quan của các thi nhân mặc khách Việt Nam thời trước đây là cái cảm quan Á Đông
khi con người đứng trước sự vật. Ở đây chúng tôi không dám đi vào sự phẩm bình mà chỉ nêu
lên sự khác biệt lạc lõng của những bài thơ của Henri Cosserat trong thời điểm 1927 với một
ngôn từ rõ rệt, tinh tế của Pháp ngữ.
Thơ mới Việt Nam bắt đầu
từ đầu thập niên 32 với Thế Lữ vốn chịu ảnh hưởng của thơ Pháp để bắt đầu áp dụng những
tĩnh từ hay trạng từ chính xác. Những bài thơ có tiếng của Thế Lữ ra đời từ đầu 1933 đến cuối
1934, tuy rằng có bài làm từ 1928 nghĩa là gần như đồng thời với các bài thơ Pháp của Henri
Cosserat.
Với một Xuân Diệu trẻ
trung của thời Thơ Mới chỉ sự Tây hóa lên đến mức cao với những câu:
Hôm nay lạnh mặt trời
đi ngủ sớm…
……………
Hơn một loài hoa đã rụng
cành
Trong vưởn sắc đỏ rủa
màu xanh
……………
Thỉnh thoảng nàng trăng
tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt
sương mờ……
Ngay vào thời điểm mà tập
thơ Thơ Thơ của Xuân Diệu ra mắt (1930) những ngôn từ hiện thực có vẻ như dịch trực tiếp
từ chữ Tây chưa hẳn được hoan nghênh, huống hồ chi thơ của Henri Cosserat đem dịch thơ
Việt với một sự trung thực tối thiểu với nguyên tác.
Do đó, tôi nghĩ rằng
thơ của Henri Cosserat đã sanh ra trước thời đại mà cảm quan của quần chúng Việt Nam chưa
quen với lối tả hiện thực của Tây phương, và vào cái thời ngôn từ thơ của Việt ngữ chưa đủ
táo bạo để sắc sảo thay lớp áo cũ phô diễn những ý thơ mới cho quần chúng thưởng lãm. Chính
sự bất phùng thời, bất phùng cảnh đó mà thơ Henri Cosserat làm thơ của ông đã ngủ yên
trong “tháp ngà” cũng như ngủ yên bài vị khám thờ cổ kính vậy.
BS Lê Văn Lân
NHỮNG
Ý KIẾN NHẬN ĐỊNH VỀ BÚT GIẢ LÊ VĂN LÂN
1-UYÊN HẠNH
GHI
CHÚ VÀ NHẬN ĐỊNH
VỀ
CÂY BÚT LÊ VĂN LÂN TRÊN KHOA HOC NET
Trong
số bài vở rất phong phú của những tháng cuối năm, tôi đặc biệt chú ý đến những
bài viết của Bác sĩ Lê văn Lân . Có thể vì tôi thích thơ
văn nên dễ hợp với bài viết của ông. Điểm đặc biệt tuy là một nhà
khoa học, ông lại viết nhiều về thơ văn. Với lời văn vui vẻ, những câu
thơ lãng mạn trữ tình ”ướt át” của cái thời mới lớn, đã làm độc gỉả phải
rộn ràng cảm khái và gửi thư thăm hỏi.
Còn
vụng dại, thưa vâng, tôi vụng dại
Tôi
dại khờ mà vẫn cứ say sưa
Chuyện
đời người làm gì có lượng cân đo
Thì
tình ái biết đâu mà suy tính
Nên
tôi muốn một lòng thành khẩn
Dâng
cuộc đời chuyện tình ái đam mê…
Ông
đã viết nhiều về xứ Huế, về thành phố của thời gian ông lớn lên tại đó qua những
trích dẫn của rất nhiều câu thơ hay, như những vần thơ của Tế Hanh:
Ta
gửi tình ta ở khoảng đường
Bước
này tưởng nhớ, bước này thương
Ta
đưa ngượng nghịu, hàng mi chớp
Ngực
đánh dồn thêm, chân vấn vương
Đi
mãi không hề biết mỏi xa
Đi
suông không dám ngó vô nhà
Đường
thường bỗng hoá trung tâm điểm
Lắm
cớ xui mình phải bước qua
Và
cảm xúc của cái thời còn là học trò xứ Huế, dễ bâng khuâng dễ “nặng lòng” vì những
dòng thơ đầy chất dang dở đau buồn của TTKH:
Đang
lúc lòng tôi muốn tạm yên,
Bỗng ai mang lại cánh
hoa tim
Cho tôi ép nốt lòng dư
lệ
Rỏ xuống thành thơ khóc
chút duyên
Đẹp gì một mảnh lòng
tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác
xơ
- "Cố quên đi nhé,
câm mà nín
Đừng thở than bằng những
giọng thơ!"
Trong bài viết,
ông đã đưa vào một số kiến thức về y khoa, và lại không quên đưa trái tim của một
người chân thành yêu cuộc đời vào đó, dù ông đã một thời trải qua nhiều khó
khăn của cuộc sống. Đó là điều tôi đã học hỏi được ở ông, và cũng là điều
muốn chia sẻ cùng các bạn. Với bản tính lạc quan vui vẻ ông hấp thụ được nắng
gió khí ấm đất trời của ba miền non nước Việt.
Văn ông Lê văn Lân có
cái trữ tình của một người miền Bắc, cái lãng mạn của xứ Huế, và cái vui vẻ nhiệt
tình của niềm Nam.
Theo lời kể của ông,
ông đã theo bố mẹ vào xứ Huế từ miền Bắc xa xôi. Hồi đó ông chỉ là đứa bé
còn non nớt lắm cần được ẵm bồng hay cần được ngủ vùi như con sâu cuộn tròn
trong lòng mẹ bỏ lại sau lưng nơi chôn nhau cắt rốn, bỏ lại những gì ông chưa
biết đến để có thể nói được chữ luyến nhớ ngậm ngùi… Phương tiện di chuyển
thời đó đã làm chuyến đi thật sự dài đăng đẳng, nên cũng đã lắm gian truân
trong một chuyến đi dài như thế.
Rồi ông lớn lên như những
thanh niên thiếu nữ của xứ Huế, rồi trong cái tuổi biết rung cảm nhớ thương để
nhận định được rằng Huế là cái xứ của những gì huy hòang thơ mộng nhưng không
kém những khắc nghiệt khổ đau. Trên 20 tuổi ông đã làm một cuộc viễn hành
xa xôi thứ hai trong đời, đi từ Huế vào Sài Gòn để học thuốc. Theo ông,
Huế đã để lại và mãi cho đến bây giờ vẫn thế, một dấu ấn sâu sắc trong lòng :
Có thể đời đã đưa tôi
vào những giảng đường
Dạy tôi đo hành tinh bằng
đường đi ánh sáng
Ðo tình yêu bằng đơn vị
tiền tài ?
Rồi tôi đo hoang vắng của
hồn tôi
Bằng những đêm rất rộng!
Sống và lớn lên tại Huế,
trong một bối cảnh thơ văn trử tình lãng mạn, làm sao không có những xao xuyến
nhẹ nhàng khi phải “dứt áo” rời xa:
Từ giã hoàng hôn trong
mắt em,
Tôi đi tìm những phố
không đèn.
Gió mùa thu sớm bao dư
vị,
Của chút hương thầm kia
mới quen.
Thời gian ở Huế đúng thật
đã để lại nhiều ấn tượng và kỷ niệm sâu đậm trong lòng ông, ghi dấu trên những
bài viết, dòng thơ, bút khảo của ông về cái xứ của tuổi niên thiếu này.
Ông đã nhớ về Huế đến độ gây cho chính tôi, một người sinh ra và lớn lên tại Huế
một sự ngạc nhiên về trí nhớ và tình cảm ông dành cho Huế. Ông viết về Huế
với từng ngõ ngách, con đường, hàng cây, bến nước… những nơi ông đã ngày hai buổi
đi học ngang qua mấy mươi năm về trước. Khải Định, Đồng Khánh, những câu
lạc bộ, những cơ quan trụ sở phường xóm, trường dạy học, luyện thi vào mùa hè,
những trung tâm trình diễn kịch nghệ mà tên tuổi của những người làm văn nghệ
đã làm Huế đẹp hơn thơ mộng hơn.
Dĩ vãng dầm mưa lén bước
về,
Áo trùng, mây tỏa, mặt
sầu che
Run tay ấp nửa bàn chân
lạnh,
Thương những con đường
mưa cuốn đi
Đã từng lê gót giầy
trên ba miền đất nước Việt Nam, ông từng là thường dân rồi làm lính. Từng
là tù nhân trên Đất Mẹ nhưng ông không là tù nhân như một tội đồ đã gây nên tội
ác. Chỉ là khi vật đổi sao dời, khi đất nước Việt Nam đổi thay một thể chế:
Tự Do thay bằng Cộng Sản, bác sĩ Lê văn Lân đã phải ngồi tù, ăn cơm mốc trộn sắn
khoai hư, nằm đất lạnh. Từ một người ”áo mão cân đai” thóang chốc trở
thành một tù nhân khốn khổ, để ông không còn khả năng bảo bọc người vợ ông
thương. Từ địa vị một phu nhân thoáng chốc bà trở thành người tay trắng,
gánh vác việc thăm nuôi chồng trong lao ngục và nuôi nấng giáo dục đàn con thơ
dại.
Đời sống cơ cực không
làm gãy đổ một tâm tính hiền hòa bình dị và niềm hăng hái với sự sống và cuộc đời.
Sau cuộc định cư ở Mỹ, ông vẫn tiếp tục phấn đấu để nuôi vợ đầy đủ nuôi con nên
người ở xứ lạ quê xa. Thời gian rảnh rỗi ông viết văn làm thơ, biên khảo
và viết rất nhiều về những gì trong đời sống của con người. Tình người,
tuổi trẻ, hoa cỏ, cây cối và nét đẹp của thiên nhiên đều được trình bày rất
khoa học và hòan mỹ, lẫn với sự dí dỏm vui tính tràn đầy qua nét bút của
ông. Đọc văn ông ta thấy được tình ông với cuộc đời, được ông đem chia sẻ
với độc giả khắp nơi.
Ông có một phong cách
riêng biệt, đáng kính, cùng nguồn nắng ấm gần như bất diệt trong ông. Cũng vì
thế ông đi vào lòng chúng ta không mấy khó. Tôi viết về ông bằng cảm tình
và sự kính mến qua mắt nhìn của một độc giả cũng như của một bút hữu cùng viết
bài cho khoahoc.net với ông. Phần lớn bài vở của ông có thể đọc ở phần
lưu trữ của khoahoc.net
Thời gian gần đây qua
bài viết của mình, ông đã đưa độc giả trở về lại những xuyến xao nồng nàn của
cái thời ”ngày đó khi ta yêu nhau”. Qua những đọan đường thơ mộng của
Huế, ông đã cho ta sống lại phút giây xao xuyến bồi hồi, để cảm nhận được rằng
mình đã có lần yêu. Cho ta trở về lại cái ”không gian một thời” và
tạm gửi lòng mình chốc lát trong những kỷ niệm đẹp nồng nàn. Thế giới tư
tưởng luôn luôn là độc quyền của riêng ta, để ta nương vào đó tìm sự bình yên
trong thóang chốc mà quên đi cảm giác lạc lòai làm ta ray rứt.
Có phải mùa xuân sắp sửa
về
Hay là gió lạnh lúc đêm
khuya
Hay là em chọn sai màu
áo
Để nắng thu vàng giữa lối
đi?
Có phải rằng tôi chưa
được quên
Làm sao buổi sáng đợi
chờ em
Hay từng hơi thở là âm
nhạc
Đàn xuống cung trầm, mắt
nhớ thương.
Hiện giờ ông đã 80 tuổi.
Văn thơ ông vẫn trong lành và ấm nắng mai, đã tạo cho ta nhiều phút giây gây
thương gợi nhớ. Cá tính dí dỏm của ông ẩn đầy trong bài viết, tình của
ông với cuộc sống đã gây xúc động cho người đọc. Dù bận rộn hay mệt mỏi
vì tình trạng sức khỏe hiện nay, ông vẫn gửi theo thư trả lời độc giả một nụ cười.
Thư trả lời bao giờ cũng nhanh cũng dài và trả lời tất cả những câu hỏi được độc
giả đặt ra. Chắc rằng người nhận thư trả lời của ông sẽ vui nhiều khi đọc
thư ông. Ông được trời ban cho một nụ cười, và ông đã không ngần ngại
chia sẻ cho chúng ta qua lá thư mình…
2-VÕ PHIẾN
TRÍCH
YẾU VỀ LỜI NHẬN ĐỊNH CỦA NHÀ VĂN VÕ PHIẾN
VỀ
LỐI BÚT KHÀO CỦA TÁC GIẢ LÊ VĂN LÂN
Trong
bài Tựa cho tập BÚT KHÀO VỀ ĂN’ của tác giả LÊ VĂN LÂN, nhà văn lão thành
VÕ PHIẾN đã nhận định rằng Bút Khào là một thứ “Khảo chơi” .
Tác giả Lê văn Lân theo lối ‘’khảo chơi’’ nên đã viết một cách ‘’ung dung,
khinh khoái’’, ‘’chập chờn khắp nơi’’ và ‘’di chuyển thoăn thoắt’’ từ đề
tài này sang đề tài khác. ....‘’
Nhưng
ai dám bảo cái khảo chơi không quan trọng bằng cái khảo thiệt ? Những nhà
nghiên cứu cặm cụi đo từng cái xương sọ của người ta, hì hục khai quật di chỉ
xưa, mằn mò nhặt nhạnh từng lưỡi búa mũi tên v.v...để tìm về nguồn gốc dân tộc,
chắc gì khỏi mừng rơn khi có người nhờ lai rai đi nếm mắm mà chợt phát giác ra
mối liên hệ gốc gác giữa các dân tộc từ Bắc đến Nam Á Châu ? Chợt nhờ mắm mà thấy
ngay sự sai lầm của các Sử Gia từng chủ trương rằng dân Việt có nguồn gốc Hoa ?
Đi
khảo thiệt với cái búa khảo cổ lăm lăm trong tay thì trông khả kính,
nhưng kẻ tài hoa đi khảo chơi, chỉ mang theo chiếc lưỡi giấu trong mồm,
trông khả ái biết bao. Và gần gũi chúng ta biết bao’’.
(
VÕ PHIẾN - Tưạ cho Bút khảo về ĂN của Lê văn LÂN, 1984)
3- VÕ ÐÌNH
Nhân
trong dịp ra mắt: “Nói về tác phẩm Một Thuở Làm "Trùm" của nhà
văn Nguyễn tấn Hưng tại Washington DC, văn thi họa sĩ quá cố VÕ ĐÌNH
lần đầu gặp bút giả Lê văn Lân đã phát biểu:
Trước
hết, tôi xin lợi dụng một phút trong chương trình của ngày hôm nay, để thưa
cùng tất cả quí vị sự vui mừng của cá nhân tôi trước khi bước lên đây, là đã được
hân hạnh gặp bác sĩ nhà văn Lê văn Lân. Lần đầu tiên được gặp
người viết các bài mà tôi đã được đọc về những chuyện rất tầm thường như ngọn
rau thơm, lá diếp cá... Rồi gần đây, chuyện trăng rằm, chuyện Vu Lan. Những
chuyện có thể coi như là tầm thường, nhưng bác sĩ Lê văn Lân đã viết rất hay, rất
duyên dáng. Thưa quí vị, đó là một điều rất đáng mừng cho tất cả chúng
ta. Và chúng tôi, riêng cá nhân chúng tôi lấy làm hân hạnh, vì xưa nay
chúng tôi đã có ý định xin địa chỉ của ông, để viết đôi lời ngưỡng mộ.
BS Lê Văn Lân Sinh năm
1931 tại Phố Bát tỉnh Nam định.
Học Trung học ở trường Quốc học Huế và tốt nghiệp Y khoa tiến sĩ Saigon (1960)
-Phục vụ Quân Y ( 1960 – 1975).
-Chuyên môn: Bác sĩ Sản Phụ Khoa & Kế Hoạch Gia Đình tai Bệnh Viện Trưng Vương
Học Trung học ở trường Quốc học Huế và tốt nghiệp Y khoa tiến sĩ Saigon (1960)
-Phục vụ Quân Y ( 1960 – 1975).
-Chuyên môn: Bác sĩ Sản Phụ Khoa & Kế Hoạch Gia Đình tai Bệnh Viện Trưng Vương
Thành viên của Ủy ban
Quốc gia Soạn thảo và Dịch thuật Danh từ Chuyên Môn
và Ủy ban Điển chế Văn tự của Phủ Quốc vụ khanh, đặc trách Văn hóa và Giáo dục ( 1971 – 1975).
-Lao tù tập trung ( 1975 – 1979)
-Vượt biển qua Mỹ. Làm việc cho Bộ Y tế Tiểu bang New Jersey ( 1980 – 1998)
-Hồi hưu tại Austin Texas từ 1998 đến nay.
và Ủy ban Điển chế Văn tự của Phủ Quốc vụ khanh, đặc trách Văn hóa và Giáo dục ( 1971 – 1975).
-Lao tù tập trung ( 1975 – 1979)
-Vượt biển qua Mỹ. Làm việc cho Bộ Y tế Tiểu bang New Jersey ( 1980 – 1998)
-Hồi hưu tại Austin Texas từ 1998 đến nay.
Xuất bản:
Bút khảo về Ăn ( 1986)
Chiếc bảo ấn cuối cùng của Hoàng đế Việt Nam ( 1998) Tái bản lần hai.
Bút khảo về Xuân ( 1999)
Les Principes de Déontologie Médicale d’après l’ouvrage “ Ngư Tiều Vấn đáp “ par Đồ Chiểu (Nguyên tắc Nghĩa Vụ Luận Y khoa theo tác phẩm Ngư Tiều Vấn Đáp Y Thuật của cụ Đồ Chiểu) viết chung với Giáo sư Nguyễn đình Cát năm 1962 – xuất bản năm 1998)
Chiếc bảo ấn cuối cùng của Hoàng đế Việt Nam ( 1998) Tái bản lần hai.
Bút khảo về Xuân ( 1999)
Les Principes de Déontologie Médicale d’après l’ouvrage “ Ngư Tiều Vấn đáp “ par Đồ Chiểu (Nguyên tắc Nghĩa Vụ Luận Y khoa theo tác phẩm Ngư Tiều Vấn Đáp Y Thuật của cụ Đồ Chiểu) viết chung với Giáo sư Nguyễn đình Cát năm 1962 – xuất bản năm 1998)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét