NGỌA DU NHÂN[1]
Tạp chí Sông
Hương số 3, 1936
Đầu năm 1935, báo
Tràng An ra đời; năm bảy kỳ đầu tiên đó người ta thấy những bài thơ dưới ký tên
Nam Trân. Nhiều bạn làng văn ở Huế tin rằng Nam Trân sẽ từ nay tiếng nổi như
phao trên thi đàn và thơ của Nam Trân sẽ được gặp luôn luôn trên tờ báo mới ấy.
Không ngờ, trải qua một thời gian chẳng phải vắn vỏi gì mà cái điều sở nguyện
của người ta vẫn chưa thấy toại; rồi thơ Nam Trân từ đó cũng tuyệt tích trên
báo Tràng An!
“Thi nhân có người
may, cũng có người chẳng may”, lời ấy phải chăng là một kinh nghiệm? Nếu nó quả
là kinh nghiệm thì, Nam Trân anh hỡi! đừng buồn nữa! anh chẳng qua là một kẻ
lãnh phần chẳng may trong bọn thi nhân tự cổ chí kim.
Nhân nói chuyện đến mà
tôi có vài lời khuyên giải vị thi - hữu đáng mến của tôi; chứ bài nầy, tôi viết
ra cốt để mổ xẻ thơ Nam Trân, trước khi đặt người lên bàn mổ, không cần y sĩ
phải có lời an ủi.
Trong thiên hạ có
nhiều sự đáng tức, mà thơ hay không được truyền là một. Sự nầy, nó đáng tức
cũng như việc làm quan giỏi mà không được thăng chức và tăng lương, cô gái xinh
ra phết mà không gặp được tấm chồng cho nên dáng. Cái tức ấy chẳng cứ gì người
đương cuộc mà khách bàng quan xưa nay đã bao lần dững dưng pha giọt lệ vào sự
bất hạnh chẳng phải của mình.
Êm êm dòng nước Hương Giang chảy,
Xúm xít thuyền con chỗ ba, bảy.
Tiếng hát ngư ông đẫm bóng cây
Như luồng khói nhẹ, lên, lên mãi.
Tháp cao dòm nước: vết meo trôi.
Đồi thấp sừng trăng dõi dõi soi.
Mờ-ớ,
xa xa gà gáy sáng...
Trong chùa canh cảnh tiếng chuông hồi.
(Trước chùa Thiên Mụ)
Đã quá nửa tháng rồi
Mà mưa, mưa chẳng dứt.
Lúng túng cảnh nhà pha,
Ai
ai xem cũng bực.
Rải
rác, chú phu xe
Co ro thân mèo ướt,
Lóng ngóng các ngã ba,
Lù xù như gà xước.
Con bạc họp tứ tung
Tha
hồ xe, pháo, mã.
Rét
mướt đánh càng hay:
Được
tiền mua áo dạ.
Đạo
đức các cụ ta
Giở
chuyện cũ ra bàn.
Dưới
nhà, cô nổi lửa:
Lốp - đốp nhả ngô rang
(Huế
mưa dầm)
Lửa hạ bừng bừng cháy,
Làn ma trốt trốt bay.
Tiếng ve rè rè mãi
Đánh đổ giấc ngủ ngày.
Đường sá ít người đi,
Bụi cây lắm kẻ núp,
Xơ
xác quán nước chè,
Ra
vào người tấp nập.
Phe phẩy chiếc quạt tre,
Chú nài ngồi đầu voi
Thỉnh thoảng giơ tay bẻ
Năm
ba chùm nhãn còi.
Huê
phượng như giọt huyết,
Giỏ
xuống phủ lề đường.
Mặt
trời gay gay đỏ
Nhuộm
đỏ góc sông Hương.
(Huế, mùa hạ)
Trời
nóng ba bốn độ.
Đèn,
sao khắp đế đô.
Mặt
trăng vàng, trỏn trẻn
Nấp
sau nhánh phượng khô.
Ba
nhịp cầu Trường Tiền
Đứng dày người hóng mát;
Ngọn gió Thuận An lên,
Áo quần kêu sột soạt,
Đủng đỉnh chiếc thuyền nan
Qua, lại bến sông Hương...
Tiếng đờn chen tiếng hát,
Thánh thót điệu Nam Bường.
Hai tay xách hai vịm,
Một vài mụ le te,
Tiếng non rao lảnh lói:
Chốc
chốc: "Ai ăn chè ?"
(Huế, mùa hạ II)
Đó
là thơ Nam Trân đó
Tôi
dám chắc bạn đọc khi vồ lấy bốn bài nầy ở đây được rồi, cứ ngâm đi ngâm lại mà
không thấy chán. Liền đó, bạn phải nhận cho tác giả nó là một thi nhân số một
số hai ở hiện thời, liệt vào với bọn Thế Lữ, Huy Thông, Lưu Trọng Lư, không đến
làm cho mình phải thẹn, vẫn biết rằng tài điệu riêng mỗi người mỗi lối, cảm
hứng mỗi người đi mỗi đường.
Ấy
thế mà bốn bài đó cùng những bài khác xuýt xoát như nhau đều đã đăng trên báo
Tràng An đó. Chính tờ báo nầy đã phụ chúng nó và tác giả của chúng, vì đã hèn
lâu mà cái tên Nam Trân thi sĩ chẳng được vang lừng như Thế Lữ, như Huy Thông,
như Lưu Trọng Lư.
Chỉ
vì một tờ báo ở vào địa vị hiềm nghi, bởi cái tên và cái giấy khai sinh của nó
mà làm cho một thi sĩ chân chính bị dùm ếm dưới thi đàn, bị xao lãng giữa tai
mắt công chúng, đã đành thế gian còn có nhiều sự bất bình hơn nữa, nhưng sự này
há lại không kể được là sự bất bình?
Bài
“Trước chùa Thiên Mụ” là rập theo điệu bài thơ “Đằng vương các” của Vương Bột,
nhưng cái hay không phải toàn ở điệu. Nó hay ở một bài thơ
mà như một bức họa. Ông nào vẽ giỏi, thử theo từng câu mà vẽ ra xem, khắc thấy
trước mắt một cảnh đẹp thiên nhiên.
Nam Trân hạ những chữ
trong bài thơ của mình, bằng một cách táo tơn mà ngộ nghĩnh. Như chữ “đẩm”
trong câu “Tiếng hát ông ngư đẩm bóng cây” chữ “sừng” trong câu “Đồi thấp sừng
trăng dỏi dỏi soi”, chữ “đánh đổ” trong câu “Đánh đổ giấc ngủ ngày”, chữ “trỏn
trẻn” trong câu “Mặt trăng vàng trỏn trẻn” đều là những chữ có vẻ khác thường,
ít ai hạ được như thế.
Không dám mách lòng
thi sĩ khác, nhưng tôi phải nói thật rằng tôi không ưa thơ họ bằng thơ Nam
Trân. Luận thơ, tôi trọng nhất ở chữ “chân”. Có phải không, hoặc tả cảnh, hoặc
ngôn tình, trong thơ Nam Trân cũng dễ tìm thấy chữ “chân” hơn thơ của người
nào? Ai đã ở qua Huế một năm, phải chịu những bài “mùa hạ”, mưa dầm” là không
cải được lấy nửa chữ
Tôi khen Nam Trân hạ
chữ ngộ nghĩnh, không phải là tôi không thấy ông ta dùng chữ còn chỗ sống sượng
đâu. Như câu “Như luồng khói nhẹ lên lên mãi”, câu thì hay, mà phải chữ nhẹ để vào đó có hơi ngớ ngẩn. Phải có
thứ khói nào nặng thì mới nói như thế được chớ? Tôi
muốn đổi lại là “Nhẹ như luồng khói...” mà tôi cho là dễ nghe hơn.
Nam
Trân lại có một chỗ trong thơ ông ta làm tôi không đồng ý được nữa, đó là cách
bỏ vận. Không vận thì thôi, chớ đã có, tôi nói phải
gieo cho đúng. Nam Trân thì:
Xao xác đồng chiêm
uống giọt sương.
Sương
pha màu sữa dưới trăng mờ.
Lều
tranh xám xịt bâu sườn núi,
Sau
dãy rào tre khúc rậm, sưa.
Ấy
là bốn câu đầu của bài “Cảnh quê”. Tôi phải lấy làm lạ sao đã nhả ra được những
câu thơ như thế mà lại không chịu săn sóc đến vận một chút để được an toàn hơn!
Dù
thế nào, trên con đường thơ mai sau, tôi có hy vọng ở Nam Trân lắm lắm. Một thi
nhân đáng biểu dương như thế ai nỡ để cho mai một đi trong hoạn trường là chỗ
để mai một cái thiên tài của người ta.
Hai số đầu của Sông
Hương lại phát biểu hai bài thơ Nam Trân. Trong có một bài thơ mới. Nhưng khi
tôi phê bình thơ Nam Trân chỉ phê bình thơ chứ không chê mới cũ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét