Học trò trong Quảng ra thi...
|
Câu ca dao theo suốt một thời tuổi trẻ của tôi, như
một nhịp cầu gắn liền hai vùng đất: “Học trò trong Quảng ra thi / Thấy cô gái
Huế chân đi không đành”, lại khẳng định một trong những tinh hoa của cả hai
nơi, là truyền thống hiếu học và vẻ đẹp rạng ngời của đất và người chốn kinh
kỳ, cái đẹp của thiên tính nữ và của cả người phụ nữ. Đó cũng là lẽ tất yếu
của một thời đại lịch sử với nền giáo dục văn chương cử tử.
|
Kinh
đô là trung tâm giáo dục. Thời nhà Nguyễn, thi Hương được tổ chức ở mỗi tỉnh,
để chọn ra các cử nhân. Sau đó về kinh thi Hội là thi vòng loại để chọn người
vào thi Đình. Thi Hội không cấp bằng (chỉ có người đỗ đầu kỳ thi Hội được
phong tặng danh hiệu Hoàng giáp), nhưng vượt qua kỳ thi Hội mới được tham dự
thi Đình, để chọn ra tiến sĩ theo ba cấp là đệ nhất cấp, đệ nhị cấp, đệ tam
cấp và phó bảng. Thời ấy, không chỉ có học trò xứ Quảng ra Huế học, mà hầu
hết các vùng đất trong cả nước đều tập trung về Huế học. Và, cũng không chỉ
có xứ Quảng mới có truyền thống hiếu học, mà còn có học trò xứ Nghệ (lúc đầu
chung cho cả Nghệ An và Hà Tĩnh), rồi Kinh Bắc, Thăng Long,... nhưng xứ Quảng
là vùng đất mới, đất nghèo khó, đất gió dông, thiên tai hạn hán, đất dữ dằn
tai ương trên con đường
mở cõi về phương Nam, các sĩ tử lại lặn lội ngược dòng về kinh đèn sách.
Trong hàng trăm những danh nhân xứ Quảng xuất hiện vào đầu thế kỷ XIX đến đầu
thế kỷ XX hầu hết đều là danh sĩ, đều là những người có học, những người mà
sau bậc cử nhân đều phải về Huế học, thậm chí có người chỉ đỗ cử nhân ở quê
cũng ra Huế làm quan. Đặc điểm nổi bật ở họ là, bằng con đường này hay con đường
khác, cách này hay cách khác, trên cương vị xã hội nào, họ cũng đều là người
yêu nước, là mẫu người lý tưởng của thời đại và nếu họ có may mắn được một
người con gái Huế nào đó quan tâm để mắt đến thì cũng là lẽ thường tình.
Những ‘học trò trong Quảng ra thi” đỗ đạt một thời, ở lại Huế
đảm nhiệm các chức quan như Nguyễn Văn Dục (1807-?), đỗ phó bảng làm quan đến
chức Tế tửu Quốc tử giám, Lễ bộ Thị lang, Lễ bộ Hữu tham tri; Đỗ Thúc Tịnh
(1818-1862), đỗ tiến sĩ từng làm chức Biện lý bộ Binh; Phạm Phú Thứ
(1820-1883), đỗ tiến sĩ làm quan đến chức Thượng thư bộ Hộ, Thương chính đại
thần, Tham tri bộ Binh, hàm Hiệp biện đại học sĩ; Hoàng Diệu (1828-1882),
đỗ phó bảng từng làm Tri huyện Hương Trà, Tham tri bộ Hình, Tham tri bộ Lại,
trông coi Đô sát viện; Nguyễn Thuật (1842-?), đỗ phó bảng, từng làm Thị lang
nội các, Thượng thư bộ Hộ, Thượng thư bộ Lại, Thượng thư bộ Binh, hàm Hiệp
biện đại học sĩ; Trần Văn Dư (1842-1885), đỗ tiến sĩ, từng làm Thừa biện bộ
Lại, Giảng tập Dục Đức đường, Chánh Mông đường (dạy học cho hai vua Dục Đức
và Đồng Khánh); Phạm Như Xương (1844-?), đỗ hoàng giáp làm quan đến chức
Thượng thư bộ Hình, sung vào Đô sát viện; Phạm Liệu (1872-1936), đỗ tiến sĩ,
làm Thượng thư bộ Lại; Phan Quang (1892-?), đỗ tiến sĩ, làm Tham tri bộ
Lại... Hoặc những người từng đỗ đạt cao, nhưng từ quan, rời bỏ kinh thành,
đứng ra tổ chức hoặc tham gia các phong trào yêu nước, tên tuổi gắn liền với xứ
Huế và lịch sử dân tộc như các phó bảng Lê Vĩnh Khanh (1819-1884), Nguyễn Duy
Hiệu (1847-1887), Phan Châu Trinh (1872-1926); các tiến sĩ Huỳnh Thúc Kháng
(1876-1947), Trần Quý Cáp (1870-1908) và những người tuy “không sinh ra cùng
năm cùng tháng, nhưng đã chết cùng năm cùng tháng cùng ngày” như Trần Cao Vân
(1866-1916), Thái Phiên (1882-1916)... Trẻ hơn, những người mà sự nghiệp gắn
liền với Huế như Trần Hoành (1880-1936), Phan Khôi (1887-1960), Nguyễn Nho
Túy (1898-1977), Nam Trân (1907-1967) hoặc những người thuộc thế hệ Tây học
đầu tiên từng học ở Huế và chính nơi đây đã góp phần tạo nên tư cách của một
danh sĩ như Phan Khoang (1906-1971), Nam Trân (1907-1967), Khương Hữu Dụng
(1907-2005), Phan Thanh (1908-1939), Thiên Giang (1911-1985), Phan Du (1915-1983),
Phạm Hầu (1920-1944), Võ Quảng (1920-2000), Nguyễn Văn Xuân (1921-2007), Nguyễn Văn Bổng (1921-2001), Lê Đình Kỵ
(1923-2010), Vũ Hạnh (sinh 1926), Nguyễn Q. Thắng (sinh 1940), Tần Hoài Dạ Vũ
(sinh 1945)...Có người chỉ học ở Huế có mấy năm, nhưng chính “Thời gian học ở
Huế, là một bước ngoặt quyết định cho sự nghiệp thơ ca của Khương Hữu Dụng”
(Trần Mạnh thường, Các tác gia văn chương Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin
2008, t.1, tr.808), nhưng cũng có người đỗ tú tài ở quê, ra Huế làm Tham tán
tòa Khâm sứ, làm Tán lý bộ Lại, đã phát hiện ra Huế đẹp và thơ (1939) như Nam
Trân.
Lần theo câu ca dao “học trò
trong Quảng ra” lập nghiệp ở Huế thời ấy, đông không kể hết và không ít người
đã làm nên danh phận đối với lịch sử đất nước và đã đóng góp không nhỏ cho xứ
Huế, nhưng dấu vết của họ còn lại nơi đây thật quá ít ỏi. Người Quảng hiện
diện trên đường phố Huế lâu nay chỉ có mỗi Viện trưởng Viện dân biểu Trung
kỳ, chủ nhiệm báo Tiếng dân Huỳnh Thúc Kháng. Đó là con đường dài 3000m, chạy
dọc bờ sông Đông Ba, hình thành cùng với dòng sông đào này từ đầu thế kỷ XIX,
lúc đầu mang tên đường Quai de Dong Ba (Bờ sông Đông Ba), năm 1956 đổi thành
Huỳnh Thúc Kháng, năm 1996 cắt đoạn từ cầu Thanh Long đến Bao Vinh đặt tên
Đào Duy Anh, đường Huỳnh Thúc Kháng chỉ còn dài 1267m. Gần đây, do sự phát
triển của quá trình đô thị hóa, nhiều khu dân cư mới được hình thành, có thêm
tên đường người thành lập An Nam Phật học hội, thành lập tổ chức Thanh niên
Phật tử Việt Nam, phát minh ra sérum trong y học và là Chủ tịch Ủy ban bảo vệ
hòa bình thế giới đầu tiên của Việt Nam Lê Đình Thám, chỉ dài khoảng 500m từ
Điện Biên Phủ đến Thích Tịnh Khiết và đường mang tên người làm trị sự, phát
hành cho báo Tiếng dân là Trần Hoành, dài không quá 350m nối từ Võ Liêm Sơn
đến Cao Đình Độ. Ngoài bức tượng của bác sĩ Lê Đình Thám còn được đặt trang
trọng trong khuôn viên chùa Từ Đàm, những nơi khác như tòa soạn báo Tiếng dân
và trụ sở của công ty cổ phần Huỳnh Thúc Kháng từng được chuyển thành Cư xá
sinh viên Huỳnh Thúc Kháng, sau 1975 trở thành khu tập thể của cán bộ trường
Đại học Y Huế, nay đã xuống cấp nhếch nhác đến mức rách nát, bẩn thỉu, không
được quan tâm đến. Khu nghĩa trang của Hội đồng châu Quảng Nam rộng mấy hecta
ở đường Tam Thai cũng chịu chung số phận, bỏ mặc cho dân lấn chiếm làm nhà cửa,
quán xá, có nguy cơ xóa sạch dấu vết. Khu nhà Lê Đình Thám từng ở trước đây,
ở số 71-75 Phan Bội Châu, đã bị chia lô, hóa giá bán cho cán bộ Sở thương
nghiệp, đã không còn dấu vết gì liên quan đến người chủ cũ. Phủ của Thượng
thư Phạm Liệu, nơi nhà thơ Phạm Hầu từng ở thời thơ ấu ở số 128-134 Phan Bội
Châu, cũng bị con cháu chia lô, bán đất, khu mộ của hai cha con nằm sau lưng
chùa Vạn Phước cũng đìu hiu, không ai biết chẳng ai hay. Đáng buồn thay trên
bia mộ của thi sĩ Phạm Hầu, một trong bốn mươi sáu tác giả được Hoài Thanh -
Hoài Chân “bầu” vào Thi Nhân Việt Nam chỉ ghi có 56 chữ, đã có 18 lỗi chính
tả! Nơi ở của Thượng thư Phạm Phú Thứ, thuở còn đi học là căn gác nhỏ ở một
xóm lao động, theo nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh, là ở ven bờ sông Hương, bây giờ
là đường Trịnh Công Sơn, nơi ông sống hòa mình vào cuộc sống những người lao
khổ và đã làm hằng trăm bài thơ về họ, ký bút danh là Giang Thụ Sào (cái tổ
chim treo trên cây ven sông), nay tuyệt nhiên không thể tìm thấy dấu vết gì.
Ngôi mộ đôi của hai nhà yêu nước Thái Phiên và Trần Cao Vân trên đồi Từ Hiếu,
cũng chỉ mới được quan tâm trùng tu từ đầu những năm chín mươi, sau khi có
kiến nghị của Hội đồng hương sinh viên Điện Bàn...
Văn hóa Mỹ là văn hóa thực
dụng (nhưng thực dụng có gì là xấu), nên họ đã tìm ra khu nhà trọ của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc đã từng ở vào những năm ba mươi và đã gắn vào đó tấm biển:
“Nơi đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã từng ở từ ngày... đến ngày...”. Và, ai đến ở căn phòng của một danh
nhân đã từng ở, xin trả tiền gấp trăm lần phòng bên cạnh. Đó là bài học đối
với ngành du lịch dịch vụ ở nước ta. Ta không nên cố gắng xây dựng các khách
sạn nhiều sao để mong chiêu dụ khách nước ngoài, vì những thứ ấy, ở nước họ
không thiếu. Tại sao không khôi phục lại những không gian văn hóa của các
tiền nhân, các danh nhân, để họ đến ở và tự hào rằng đã được sống nơi một
danh nhân từng sống? Du lịch từ trong sâu thẳm tâm hồn của chủ thể, là khách
du lịch bao giờ cũng là cuộc rong chơi văn hóa. Từ văn hóa mới tạo ra kinh
tế. Du lịch bán hàng theo kiểu tiểu nông của Trung Quốc một thời thịnh hành,
đem lại nhiều thành tựu và đã tràn sang nước ta như hiện nay, không còn hấp
dẫn và thu hút khách nước ngoài. Khôi phục lại không gian văn hóa quá khứ để
kinh doanh, vừa thu lợi nhuận về kinh tế, vừa thể hiện ý nghĩa văn hóa, lại
vừa quan tâm đến di sản quá khứ của tiền nhân.
Một vùng đất văn hóa luôn được
tạo nên bởi những nhà văn hóa. Đó là những người biết trân trọng, nâng niu
từng hạt sáng lấp lánh trong đời sống quá khứ, biết đãi cát tìm vàng, để làm
giàu có thêm những giá trị văn hóa, chứ không phải sự phủ nhận, loại bỏ, xóa
sạch và xây dựng cái mới một cách thực dụng. Văn hóa là những thành tựu về
vật chất và tinh thần do con người làm ra, nhưng xét cho cùng nó tồn tại ở
dạng tinh thần là chủ yếu, nơi mà nhiều thế hệ, từ đời này sang đời khác,
từng phả tâm hồn của mình lên đó, làm nên sức sống muôn đời. Với tốc độ phát
triển đô thị hóa như hiện nay, không biết còn bao nhiêu dấu vết của những
“học trò trong Quảng” còn tồn tại bao lâu nữa ở xứ Huế
đẹp và thơ?
Phạm Phú Phong
|
Nam Trân

Thứ Tư, 25 tháng 12, 2013
Học trò trong Quảng ra thi...
Thứ Ba, 10 tháng 12, 2013
Nhật kí trong tù tròn bảy mươi năm (1943-2013)
Nhật kí trong tù tròn bảy mươi năm (1943-2013)
Hà
Minh Đức (Hội nhà văn Việt Nam)
Năm 1942, trong một chuyến công
tác sang Trung Quốc, người bị bắt ở Túc Vinh với lý do về giấy tờ. Từ đấy là
một hành trình gian khổ. "Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại",
Người bị giam giữ 388 ngày. Khi ra tù sức khỏe giảm sút, mắt mờ, chân chậm nhưng
vẫn cố sức rèn luyện. Mới ra tù tập leo núi và từng bước khôi phục lại sức khỏe
vì con đường cách mạng còn dài, ở tuổi ngoài 50 vẫn có diều kiện và trách nhiệm
phục vụ sự nghiệp cách mạng. Thoát khỏi cảnh tù đày, Người có thư cáo lỗi với
đồng chí, đồng bào đã thiếu khôn khéo mà đã lâm nạn để đồng chí, đồng bào lo
phiền. Người nói "Trong cái rủi có cái may là đã xem được vốn hiểu biết về
bè bạn đặc biệt với nhân dân Trung Quốc". Xin được tiếp ý Người là còn có
thêm cái may có được tập thơ lớn Nhật Kí Trong Tù.
Nhật kí trong tù gồm 133 bài.
Bản dich đầu tiên của Viện văn học (1960) gồm 114 bài. Đến năm 1990, toàn bộ
133 bài được dịch và giới thiệu trọn vẹn tập Nhật Kí trong tù xuất bản năm 1960
không ghi người chỉ đạo và các dịch giả. Giáo sư Đặng Thai Mai Viện trưởng Viện
văn học chỉ đạo và nhà thơ Nam Trân chịu trách nhiệm chính thức dịch thuật. Tập
thơ in xong ngày 10/4/1960 và nộp lưu chiểu tháng 4/ 1960. Tác phẩm đã gây
tiếng vang lớn và là sự kiện văn hóa, văn học hàng đầu trong năm. Các nhà
nghiên cứu như Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Trần Huy Liệu, Hoàng Xuân Nhị, Cao
Xuân Huy, Trần Thanh Mai, .... đều có bài viết ca ngợi giá trị lớn của Nhật kí
trong tù. Các nhà thơ như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Khương
Hữu Dụng, Hoàng Trung Thông đều có những trang viết trân trọng ca ngợi thơ của
Người. Nhật kí trong tù thực sự đã tạo được không khí văn chương thiêng liêng
và cao đẹp của một tâm hồn thơ với "một phong thái ung dung, một khí phách
hào hùng, một ý chí sắt đá, một tinh thần lạc quan cách mạng không lay chuyển
nổi"1. Giáo sư Đặng Thai Mai có những bài viết đặc sắc như Một tập nhật
kí, cũng là một tập thơ, Tình cảm thiên nhiên trong "Ngục trung nhật
ký", Yếu tố tinh thần trong "Ngục trung nhật ký". Ba bài viết thâu
tóm những đặc điểm cơ bản của Nhật kí trong tù. Giáo sư Đặng Thai Mai nhấn
mạnh: "Tinh thần là nét đặc sắc lộng lẫy từ đầu đến cuối trong Ngục trung
nhật ký". Nhà phê bình Hoài Thanh đã lí giải sâu sắc về chất thép trong
Nhật Kí trong tù: Không phải cứ nói chuyện thép, lên giọng thép mới là có tinh
thần thép.
Trong thơ văn cũng như trong
cuộc đời, cái điều quan trọng nhất vẫn là cái thực chất của con người. Nhật ký
trong tù rất ít có những lời hô to gọi lớn... Bác cứ nhỏ nhẹ hồn nhiên mà từ
toàn bộ tập thơ vẫn thoát lên tinh thần thép". Nhà thơ xuân diệu viết bài
Yêu thơ Bác với nhiều ý tứ sâu sắc "Cái hay vô song của tập thơ là chất
người cộng sản Hồ Chí Minh được đạo tạo trong lò đun đúc của Lênin mà vẫn mang
cái tinh anh của Nguyễn Trãi. Đó là chất người như Nguyễn Trãi đã nói "mài
chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen, bỏ vào lửa không cháy"”. Xuân Diệu ca ngợi
trí tuệ của Hồ chủ tịch "luôn luôn động như lửa nổ tí tách". Thơ Bác
có chiều sâu trí tuệ cũng vì thê theo Xuân Diệu người đọc luôn cảm thấy như
chưa tìm thấy, hiểu hết cái hay của bài thơ. Nhà thơ Lưu Trọng Lư cho rằng
trong thơ Bác bên cạnh những bài sâu sắc giàu suy tưởng, có những bài quá giản
dị nhưng lại tiềm ẩn bên trong tình cảm nhân ái, yêu thương của những người
nghèo khổ như trong bài thơ Hàng Cháo:
Ven đường nấp dưới bóng hàng cây
Một túp lều tranh "quán rượu đây"
Chỉ có cháo hoa và muối trắng
Đường xa khách tạm nghỉ nơi này
Một túp lều tranh "quán rượu đây"
Chỉ có cháo hoa và muối trắng
Đường xa khách tạm nghỉ nơi này
Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã ghi
nhận bằng cảm xúc và suy nghĩ khi đọc Nhật ký trong tù:
Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh dèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của bác vần thơ thep
mà vẫn mênh mông bát ngát tình
Ánh dèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của bác vần thơ thep
mà vẫn mênh mông bát ngát tình
Nhật ký trong tù là món quà, là
lộc quý Người ban tặng cho mọi người. Nhật ký trong tù vào trường học, trên
diễn đàn thơ, trong sổ ghi chép của người chiến binh và mở ra với thế giới bên
ngoài.
Một thế hệ các nhà nghiên cứu,
nhà thơ lại tiếp tục nghiên cứu Nhật ký trong tù qua các công trình, sách giáo
khoa, bài giảng. Có thể kể các nhà nghiên cứu Vũ Khiêu, Văn Tâm, Phan Cự Đệ,
Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê, Huệ Chi, Hoàng Ngọc Hiến, Trần Đình Sử, Lương Duy
Thứ, Trần Thị băng Thanh, Vũ Quần Phương, thiên hướng chung là nghiên cứu với
tinh thần phân tích khoa học. Với nhiều nỗ lực một số nhà nghiên cứu đã cho
xuất bản Những suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù. Cho đến nay nhiều người đã
mất, nhiều nhà khoa học vẫn theo đuổi đến cùng định hướng khoa học trên Trong
giải thưởng Học tập và làm theo tấm gương của Hồ Chủ tịch (2013), các giáo sư
Phong Lê, Vũ Khiêu được tặng giải về các công trình nghiên cứu văn thơ Hồ Chí
Minh. Riêng về Nhật lý trong tù, tôi cũng đã viết nhiều bài nhân các dịp kỷ
niệm, nhiều ý cũng đã được trình bày, không dễ có cái mới. Với tôi, duy chỉ có
một bài có ấn tượng nhằm phê phán Lê Hữu Mục với tác phẩm Nhật ký trong tù
không phải của Hồ Chí Minh. Vậy thì tác giả thật là ai? Lê Hữu Mục đã bịa đặt
cho rằng đa phần thơ trong tác phẩm là của ông già Lý một hảo hán cùng bị tù ở
nhà tù Victoria năm 1931-1933. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc cũng đã có một số ý phê
phán. Tôi đi sâu vào đặc điểm của tập thơ là tập ký có ghi chép trên các bài
thơ trùng với huyện mà người bị áp giải trong suốt 388 ngày Người bị giam giữ.
Tôi đã có dịp may được xem hiện vật, lần dở các trang. Không có chuyện bịa đặt
là Người cùng già Lý viết chung cuốn sổ tay. Lê Hữu Mục cũng đã nói sai sự thật
cho rằng cuốn sổ có 100 bài và bìa màu xanh, thực sự thì cuốn sổ màu vàng nhạt
và có 133 bài thơ. Mọi sự xuyên tạc đều không tồn tại và bị lên án.
Nhật ký trong tù không phải là
sự kiện văn học của một dân tộc mà nhanh chóng lan tỏa trên thế giới. Cho đến
nay, hầu như Nhật ký trong tù được dịch ra hầu hết các nước lớn qua các ngôn
ngữ Pháp, Anh, Nga, Trung Quốc, Tây Ban Nha. Tập thơ được hoan nghênh, các
chính khách, nhà báo, nhà văn đều khen ngợi ở phẩm chất cao đẹp, ý chí bất
khuất của tác giả trong một hoàn cảnh rất khó khăn. Nhiều bài viết ca ngợi chủ
nghĩa nhân đạo, tình yêu thương con người. Người viết hòa nhập với cuộc đời
thường, với những người cùng hội cùng thuyền, tuy gian khổ nhưng vẫn tin tưởng
vào ngày mai. Tập thơ ấy có triết lý sây sắc, có tầm nhìn xa và có nghệ thuật biểu
hiện thành thực,n gợi cảm, Khen ngợi Nhật ký trong tù những người viết không bị
ràng buộc với chức vụ của Hồ Chủ tịch mà chủ yếu là sự cảm nhận bình đẳng cái
hay, cái đẹp của tập thơ. trước hết, phải kể đến ý kiến của các nhà văn Trung
Quốc như Quách Mạt Nhược, Viên Ưng, Hoàng Tranh. Nhà văn Quách mạt Nhược đã nêu
lên ba ưu điểm, ba phẩm chất của tập thơ. Về tư tưởng, dường như bài nào cũng
có chât thép, câu thơ nào cũng có chất thép. Vê phản ánh hiện thực, tập thơ đã
miêu tả chán thực bộ mặt của xã hội Trung Quốc vào những năm 1942-1943 dưới chế
độ Tưởng Giới Thạch. Về nghệ thuật, một số bài để bên cạnh thơ Đường, thơ Tống
cũng khó phân biệt. Đó là những lời khen chân tình sâu sắc. Nhà thơ Viên Ưng
cho rằng người đọc xong tập thơ thấy một con người, một bậc đại chí, đại nhân,
đại dũng. Nhà nghiên cứu Hoàng Tranh đã ghi chép tỉ mỉ xuất xứ của các nhân vật
và địa chí trong Nhật ký trong tù. Tập thơ có hai bản dịch ở Mỹ: Một là của
Harrison do nhà Bantam xuất bản. Trong lời giới thiệu, người viết đã nêu lên
những ý tưởng mới về những bài thơ không chỉ viết bằng hoa và lá, sông và núi
mà đưa cả chất thép vào trong thơ. Harrison gọi Hồ Chí Minh là "Nhà thơ có
tâm hồn con rồng"(1) với ý tưởng con rồng thoát khỏi ngục tù, con rồng sẽ
bay. Harrison cho rằng với nhiều bài thơ tác giả đã viết văn bia cho chính
mình.
Cũng ở Mỹ, tôi gặp dịch giả
Huỳnh Sanh Thông một người có tinh thần dân tộc, có trình độ dichj thuật cao.
Tôi hỏi ông về tác phẩm Nhật ký trong tù, ông trả lời: "Tôi đã dịch Truyện
Kiều, Chinh phụ ngâm, Ngục trung nhật ký của Phan Bội Châu và Nhật ký trong tù
của Hồ Chí Minh". Đặc biệt nhà báo mỹ Han-bơtam cho rằng: Nhật ký trong tù
là cuốn sách hay nhất của Hồ Chí Minh. Ở Pháp, bản dịch Nhật ký trong tù của
Phan Nhuận có thể xem là một trong những bản dịch đầu tiên về Nhật ký trong tù.
Nhiều nhà văn, nhà báo ca ngợi
Nhật ký trong tù như Jean Lacouture, Boudarel, Rôgiê Đơnnuyx đều chú ý đến
phong cách sáng tạo của Nhật ký trong tù và họ còn đưa ra một số nhận xét về
ảnh hưởng của thơ phương Tây với Nhật ký trong tù. Ở Cu-ba, nhà thơ Phe-lic
Pi-ta Rôdrighết đặc biệt ca ngợi Nhật ký trong tù: "Nhật ký trong tù như
một tòa nhà bằng ngôn ngữ vững chắc và đẹp, mỗi bước đi đều chạm vào gốc rễ sâu
xa của một trong những con người kỳ diệu ít có, những con người như những tảng
đá lớn làm nền cho nhân loại".
Nhà thơ Phi-lip-pin Vi-en-xiô R
Hô-xê cho biết: "Ở một số trường đại học Phi-lip-pin thường có những cuộc
tọa đàm bàn luận về thơ, những nhà thơ nổi tiếng trên thế giới như Hainơ,
Rilkeb Aragông, Neerrruda, Eptusenkô, trong đó thơ Hồ Chí Minh chiếm một vị trí
quan trọng, thơ của Người khích lệ và gắn với cuộc đấu tranh của chúng tôi cho
tự do". Cũng có thể nói thơ của Hồ Chủ tịch thực sự là một đọng lực tinh
thần giúp cho những ai đang vượt qua những khó khăn, khẳng định thêm sức mạnh
của mình để dành những thắng lợi. Nhiều nhà văn, nhà thơ nước ngoài không có
dịp đọc cả tập thơ, nhưng chỉ tiếp xúc với một hai bài đã có những ấn tượng đặc
biệt. Nhà văn Đức Éc-hác Séc-nơ đọc bài thơ Học đánh cờ và có nhận xét: Tôi đã
đọc kĩ bài thơ mà người viết về Học đánh cờ, đây là một nhận thức có tầm chiến
lược, chiến thuật rất cao". Cũng ở nước Đức, trong tập tuyển thơ Những đêm
hành quân của Việt Nam, có đăng bài thơ Hoàng hôn:
Gió sắc tựa gươm mài đá núi
Rét như rùi nhọn chích cành cây
Chùa sa chuông giục người nhanh bước
Trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay
Rét như rùi nhọn chích cành cây
Chùa sa chuông giục người nhanh bước
Trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay
Đúng là một bức tranh phong cảnh
đồng quê của phương Đông như tác giả nhận xét. Thiên nhiên có lúc khắc nghiệt
nhưng cuộc sống con người vẫn diễn ra quen thuộc, bình yên, gần gũi.
Từng bài, từng bài, Nhật ký
trong tù có nhiều bài thơ hay. Nhà phê bình Hoài Thanh cho rằng thơ hay có
khoảng trên dưới ba chục bài, một tỉ lệ cao dối với một tập thơ. Mỗi người có
thể tìm đến những bài thơ mình yêu thích, thậm chí những câu thơ yêu thích về
nhiều phương diện của cuộc sống, và đây là những câu thơ suy nghĩ về đất nước
trong cảnh đời nô lệ:
Trên đời nghìn vạn điều đắng cay
Cay đắng chi bằng mất tự do
Cay đắng chi bằng mất tự do
Và mơ ước:
Canh bốn canh năm vừa chợp
mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh,
Và cảnh ngộ hiện tại của riêng mình:
Ở tù năm trọn thân vô tội
Hòa lệ thành thơ tả nỗi này
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh,
Và cảnh ngộ hiện tại của riêng mình:
Ở tù năm trọn thân vô tội
Hòa lệ thành thơ tả nỗi này
Những câu thơ viết về ý chí đấu
tranh không lùi bước trước khó khăn: Giầy giách đường lầy chán lấp lánh, Vẫn
còn dẫn bước dậm đường xa, Nghĩ mình trong bước gian truân, Tai ương rèn luyện
tinh thần thêm hăng. Những câu thơ viết về tình thương: Giãi gió dầm mưa chẳng
nghỉ ngơi, Phu đường vất vả lắm ai ơi, Ngựa xe hành khách đường qua lại, Biết
cảm ơn anh được mấy người. Những câu thơ tin tưởng vào ngày mai: Phương đông
màu trắng chuyển sang hồng, Bóng tối đêm tàn quét sạch không, Hơi ấm bao la
trùm vũ trụ, Người đi thi hứng bỗng thêm nồng...
Thật khó để xác định trong Nhật ký trong tù bài thơ nào là hay nhất vì có nhiều bài thơ hay. Cấu trúc thơ trong Nhật ký trong tù có nhiều lớp nghĩa không dễ phát hiện và khai thác hết. Nhiều bài thơ khó, rất hay như thách đố người đọc, bài thơ Nhập lao Tĩnh Tây có những ý kiến khác nhau của giáo sư Đặng Thai Mai, giáo sư Hoàng Xuân Nhị, nhà thơ Hoàng Trung Thông. Bài thơ Cảnh chiều tối không dễ tìm ra chủ đề và lý giải nội dung một cách thuyết phục:
Thật khó để xác định trong Nhật ký trong tù bài thơ nào là hay nhất vì có nhiều bài thơ hay. Cấu trúc thơ trong Nhật ký trong tù có nhiều lớp nghĩa không dễ phát hiện và khai thác hết. Nhiều bài thơ khó, rất hay như thách đố người đọc, bài thơ Nhập lao Tĩnh Tây có những ý kiến khác nhau của giáo sư Đặng Thai Mai, giáo sư Hoàng Xuân Nhị, nhà thơ Hoàng Trung Thông. Bài thơ Cảnh chiều tối không dễ tìm ra chủ đề và lý giải nội dung một cách thuyết phục:
Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng
Hoa tàn hoa nở cũng vô tình
Hương hoa bay thấu vào trong ngục
kể với tội nhân nỗi bất bình
Hoa tàn hoa nở cũng vô tình
Hương hoa bay thấu vào trong ngục
kể với tội nhân nỗi bất bình
Nhật ký trong tù quy tụ nhiều
tri thức về chính trị, triết học, đạo lý. Bảy mươi năm đã trôi qua, giá trị của
tác phẩm được tôn vinh, nội dung được khai thác nhiều. Song không thể nói là đã
tìm hieeurnghieen cứu đầy đủ về tác phẩm. Có thể nói nhiều vấn đề được đặt ra
trong Nhật ký trong tù như tư duy của Nhật ký trong tù, tính nhất quán về tầm
cao và chiều sâu của 133 bài thơ của tác phẩm. Minh triết của Nhật ký trong tù,
sự đánh giá của phương Tây và thế giới về giá trị của Nhật ký trong tù. Người
đọc thường nhận xét Nhật ký trong tù ảnh hưởng thơ Đường, thơ Tống, còn ảnh
hưởng của thơ ca dân gian, thơ cổ điển đến Nhật ký trong tù như thế nào. Một số
nhà nghiên cứu phương Tây còn cho rằng Nhật ký trong tù cũng chịu ảnh hưởng của
thơ phương Tây. Nếu có, điều này cũng không dễ phát hiện. Phan Nhuận và Jean
Lacouture đã có một số ý kiến theo hướng này. Lâu nay, việc nghiên cứu Nhật ký
trong tù như chậm lại, có ý kiến cho rằng về nội dung cơ bản đã được khai thác
kĩ. Nhận thức trên không phù hợp với giá trị thực của tác phẩm. Khi tác phẩm
Nhật ký trong tù xuất hiện nhiều bài viết luận bàn về vấn đề dịch thuật. nả
dịch năm 1960 về cơ bản là tốt nhưng vẫn có thể bổ sung ở bài này bài khác, câu
này câu khác. Điều này nhiều người đã làm, một bài thơ hay có thể có ba bốn bản
dịch khác nhau, không nên chữa chạy bản dịch cuả người đi trước nhất là khi họ
đã qua đời. Thực sự dịch thơ Bác rất khó. Có lần người nói: "Thơ các chú
dịch hay hơn thơ Bác". Nhận thấy điều đó nhưng Người không tham gia vào
việc sửa chữa bổ sung. Theo lời của nhà thơ Khương Hữu Dụng, chỉ có một lần duy
nhất trong bài thơ Thượng sơn ở hai câu cuối nhà thơ Xuân Diệu dịch:
Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu
Thề đuổi xâm lăng diệt cả bầy
Thề đuổi xâm lăng diệt cả bầy
Bên cạnh những hàng chứ trên có
ghi một hàng chữ nhỏ: Thề diệt xâm lăng lũ sói cày. Nhà thơ Khương Hữu Dụng cho
rằng dịch như thế là sát với nghĩa với câu thơ Thề diệt sài lang xâm lược quân.
Trong một buổi họp bàn về dịch
thuật Nhật ký trong tù do nhà sản xuất bản Khoa học xã hội tổ chức tại phố Cửa
Đông có các vị Nguyễn Sĩ lâm, Phạm Huy Thông, Xuân Diệu và một số nhà nghiên
cứu. Ý kiến của Nguyễn Sĩ Lâm cho rằng bài thơ Bị hạn chế dịch thô thiển nhất
là ở câu thứ hai. Thực ra tác giả chỉ nói bị hạn chế "Cửa tù khi mở không
đau bụng, Đau bụng thì không mở cửa tù". Chỉ thế thôi người đọc sẽ hiểu
hoàn cảnh và yêu cầu của người trong cuộc. Trong bài thơ Cảnh chiều tối:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng (1)
Xay hết lò than đã rực hồng (1)
Có ý kiến cho rằng không thể
dùng chữ em với Hồ Chủ tịch vì nó thân tình quá, dễ hiểu lầm. Nhà thơ Xuân Diệu
nói: "Hiểu lầm hay không là do người tiếp nhận. nếu thay chữ em thành chữ
gái (Cô thôn thiếu nữ ma bao túc) thì câu thơ dịch sẽ chịu ba dấu sắc nặng nề
Cô gái xóm núi xay ngô tối".
Bàn luận nhưng rồi không kết
luận, Nhật ký trong tù có cần bổ sung về phần dịch thuật, ở chừng mực nào.
Bảy mươi năm đã trôi qua, giá
trị của Nhật ký trong tù vẫn bền vững, cần có những nỗ lực mới trong nghiên
cứu, trong giảng dạy ở nhà trường về tác phẩm có giá trị với tầm vóc lớn nhất
trong thơ ca Việt nam thời kỳ hiện đại.
1 Hồ Chí Minh - Nhật kí trong
tù-Lời nói đầu, nhà xuất bản văn học 1960 trang 4
(1) Bản dịch bài thơ "Chiết tự"
(1) Bản dịch bài thơ "Chiết tự"
Người thoát khỏi tù ra dựng nước
Qua cơn hoạn nạn rõ lòng ngay
Người biết lo âu ưu điểm lớn
Nhà lao mở cửa ắt rồng bay
Qua cơn hoạn nạn rõ lòng ngay
Người biết lo âu ưu điểm lớn
Nhà lao mở cửa ắt rồng bay
Thứ Tư, 27 tháng 11, 2013
60 năm Viện văn học và tạp chí nghiên cứu văn học
60 năm Viện văn học và tạp chí nghiên cứu văn học
60 năm
đồng hành
cùng
tiến trình văn học Việt Nam đương đại
- Chúc mừng 60 năm thành lập Viện văn học và
Tạp chí nghiên cứu văn họcTrần Đình Sử
Sự ra đời của Viện Văn học thuộc Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam ngày nay 60 năm trước là một sự kiện đáng nhớ, bởi đó là cơ quan nghiên cứu văn học chuyên ngành đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu Viện đã quy tụ được những nhà văn, nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng nhất ở miền Bắc của đất nước như Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đổng Chi, Cao Xuân Huy, Trần Thanh Mại…. Trải qua nhiều đời viện trưởng từ Đặng Thai Mai, Hoàng Trung Thông, Hoàng Trinh, Phong Lê, Hà Minh Đức, Phan Trọng Thưởng, đến Nguyễn Đăng Điệp và nhiều thế hệ nhà nghiên cứu văn học tài năng, viện văn học đã trải qua chặng đường 60 năm phát triển, trưởng thành, đạt nhiều thành tựu và hiện đang đứng trước những triển vọng và thách thức mới.
60 năm qua là 60 năm Viện văn học và Tạp chí nghiên cứu văn học đồng hành với tiến trình văn học đương đại Việt Nam, là một bộ phận không tách rời của tiến trình ấy. Giai đoạn đầu “Văn Sử Địa” chủ yếu là giai đoạn sưu tầm, tìm hiểu nội dung các hiện tượng văn học Việt Nam đủ loại, từ văn học dân gian đến văn học viết, nhiều thành tựu mà cũng không ít ấu trĩ của buổi đầu vận dụng phương pháp mác xít duy vật. Từ ngày thành lập Tạp chí nghiên cứu văn học năm 1959 cho đến năm 1975, viện và tạp chí bước vào một giai đoạn mới, vừa nghiên cứu, sưu tầm tư liệu văn học vừa học tập lí luận văn học Liên Xô, vừa nghiên cứu văn học hiện đại, vừa làm người lính xung kích trên mặt trận đấu tranh tư tưởng văn nghệ của Đảng. Trong bối cảnh của hai ngiệm vụ chiến lược của đất nước và trong quỹ đạo của cuộc đấu tranh ý thức hệ và chiến tranh lạnh, sự nghiệp nghiên cứu văn học chủ yếu là phục vụ chính trị của thời đại, khó có thể khác được.
Trên mặt trận tư tưởng, tạp chí văn học là nơi thường xuyên đăng tải các nghị quyết của Đảng, các bài phát biểu của các vị lãnh đạo, các nhà văn nghệ có uy tín về văn học nghệ thuật. Nhiệm vụ thứ hai là tìm hiểu các khái niệm nguyên lí lí luận văn học mác xít của Liên Xô, lí luận phản ánh, chủ nghĩa hiện thực chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, điển hình, tính đảng cộng sản, tính nhân dân, thế giới quan và sáng tác, trau dồi vốn sống, vai trò của nguyên mẫu, vấn đề thể hiện cuộc sống mới, con người mới, xây dựng nhân vật anh hùng của thời đại, tác dụng của thể kí, tình cảm trong văn nghệ, phê phán các chủ nghĩa văn học sai trái như chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa hiện sinh, siêu thực… các thứ kẻ thù của lí trí. Tạp chí văn học đã dành nhiều trang cho việc cổ vũ, khích lệ văn học cách mạng, khẳng định các sáng tác đi theo phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. Văn học dân gian, văn học cổ điển trung đại, văn học hiện thực trước 1945, văn học liên Xô cũng được nghiên cứu, giới thiệu đánh giá cụ thể. Trong cuộc đấu tranh tư tưởng về văn nghệ, Tạp chí nghiên cứu văn học trước sau đã tổ chức nhiều cuộc tranh luận, phê phán các quan điểm được cho là sai trái. Chẳng hạn cuộc phê phán giáo trình về phương pháp sáng tác của giáo sư Lê Đình Kỵ, phê phán quan niệm phá vỡ logich cuộc sống của Mai Thúc Luân, phê phán quan điểm tiếp nhận văn học của Nguyễn Văn Hạnh. Trên bình diện ý thức hệ Tạp chí nghiên cứu văn học là diễn đàn phê phán các tư trào văn nghệ tư sản phương Tây và chủ nghĩa xét lại hiện đại. Từ sau năm 1975 tiếp tục phê phán các tàn dư của văn hóa văn học thực dân mới ở miền Nam sau giải phóng. Giai đoạn từ cuối nhứng năm 70 đến đầu những năm 80 viện và Tạp chí có những chuyển đổi rất đáng quý. Giáo sư Hoàng Trinh và nhiều cộng sự đã tìm cách đổi thay cách nhìn nhận nhiều hiện tượng văn học và lí luận phương Tây, tạo đà, bắc cầu cho những đổi mới lí luận về sau. Đó là văn học so sánh, kí hiệu học, thi pháp học, tiếp nhận văn học, tất nhiên vẫn tiếp tục có những bài phê phán các tư tưởng tư sản.
Từ thời kì Đổi mới năm 1986, Viện văn học và Tạp chí đã tham gia nhiệt tình vào công cuộc đổi thay to lớn đó. Viện văn học như lột xác lao mình vào đổi mới. Tạp chí có những số dành cho các hiện tượng văn học mới. Viện tổ chức những cuộc hội thảo với các vấn đề thời sự lúc ấy như như văn học và hiện thực, phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. Từ khi đất nước đi vào hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa tri thức, Viện và Tạp chí ngày càng đi sâu vào các vấn đề học thuật và thẩm mĩ, đồng thời mở ngành đào tạo sau đại học, từ đây viện trở thành vườn ươm những nụ mầm của ngành nghiên cứu văn học hiện đại của đất nước, sát cánh với các trường đại học nổi tiếng khác.
Thành tựu đầu tiên của Viện là phiên dịch, bình luận tập thơ Nhật kí trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đáp ứng tình cảm yêu kính lãnh tụ của nhân dân ta. Dù sau này có nhiều bản dịch khác, nhưng bản dịch của Viện văn học lúc ấy do nhà thơ Nam Trân chủ trì vẫn là bản dịch được yêu thích nhất. Cho đến năm 1983 Viện lại cho công bố văn bản đầy đủ của tập Nhật kí trong tù và đổi mới cách nhìn nhận phù hợp hơn với ý thức văn học. Thành tựu thứ hai, tuy chưa trọn vẹn là nghiên cứu, sưu tầm, phiên âm, phiên dịch giới thiệu bộ Văn thơ Lí Trần, thành quả của một tập thể các nhà nghiên cứu, lần đầu tiện cung cấp một tuyển tập đồ sộ về văn thơ một thời oanh liệt và độc sáng trong lịch sử dân tộc. Thành tựu thứ ba là rất nhiều bộ sưu tập tác phẩm từ văn học đến lí luận phê bình, sưu tập các nghiên cứu về tác gia tác phẩm, sưu tập về lí luận văn học cổ điển. Các công trình nghiên cứu, các tác phẩm rời rạc được tập hợp lại có hệ thống tiện lợi cho những người sau tìm đọc. Thành tựu thứ tư là từ cuối những năm 70, từng bước, bắt đầu giới thiệu một số tư tưởng văn nghệ phương Tây như mĩ học tiếp nhận, văn học so sánh, kí hiệu học, thi pháp học, công bố những công trình nghiên cứu lí thuyết về văn bản, tác phẩm. Viện đã cho xuất bản tập tuyển chọn Lí Luận phê bình văn học thế giới thế kỉ XX gồm hai tập. Sự giới thiệu ấy tuy lẻ tẻ, thiếu tập trung, nhưng rất đáng quý, mặc dù còn xa mới có tính hệ thống. Thành tựu thứ năm là đã liên kết mở một số hội thảo trong nước và quốc tế, nhất là quốc tê, thúc đẩy giao lưu học thuật với các học giả nước ngoài. Thành tựu thứ sáu là đã thực hiện đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ, là cơ sở đào tạo có uy tín trong nước. Các bộ từ điển tâc phẩm văn học hiện đại Việt Nam, Từ điển typ truyện dân gian Việt Nam cũng là những thành tựu đáng kể của Viện. Tôi muốn nhấn mạnh tới cuốn Từ điển typ truyện, tuy có một sơ suất đáng tiếc, song từ ý tưởng khoa học cho đến thực hành biên soạn, là một đóng góp mới của ngành văn học dân gian nước nhà nhằm đuổi theo trình độ thế giới. Thời gian gần đây, Viện có xu hướng quan tâm các hiện tượng văn học đương đại nổi trội, hứa hẹn sự gắn nghiên cứu với thực tiễn văn học đương đại. Văn học đương đại đang có nhiều hiện tượng mới, song đánh giá còn khác nhau. Những cuộc hội thảo sẽ gốp phần thu hẹp những khác biệt. 60 năm Viện văn học đã tích lũy biết bao thành quả nghiên cứu văn học chung của cả nước. Tạp chí nghiên cứu văn học đã vô tư phản ánh đầy đủ mọi thành tựu của nghiên cứu văn học Việt Nam hơn nửa thế kỉ qua. Các nhà khoa học và cộng tác viên coi tạp chí như là của mình.
Là Viện chuyên ngành duy nhất của cả nước, người ta có quyền mong đợi và đòi hỏi ở Viện rất nhiều. Nghiên cứu văn học là ngành khoa học nhân văn, tất nhiên không thể xa rời với chính trị của đất nước, song không đồng nhất với chính trị. Nhìn lại nhiều cuộc đấu tranh gay gắt về quan điểm, đến bây giờ còn để lại gì cho di sản văn học hôm nay, ngoại trừ những quy kết chủ quan nhất thời. Viện văn học là cơ quan học thuật, nó phải làm nòng cốt cho những hoạt động học thuật có kế hoạch của nước nhà, chủ trì những đề án lớn,trở thành những mũi nhọn, đi đầu trong những hướng nghiên cứu, giúp cho việc nghiên cứu được tiến hành có hệ thống, khách quan và chuẩn mực. Ngành nghiên cứu văn học chúng ta vốn hình thành tự phát trước 1945, được định hướng quá chặt chẽ trong những năm trước đổi mới, nó thực sự chưa trở thành quy cũ, ít thành quả lí thuyết, chưa có nhiều bản sắc riêng rõ nét. Học tập các thành tựu lí thuyết nước ngoài là cấp thiết, song cần chủ động chọn lọc và phát triển thành các mũi nhọn có bản sắc riêng của khoa nghiên cứu văn học Việt Nam. Hiện thời cơ quan học thuật nào của chúng ta cũng đều thiếu nhân lực, sự liên kết, hợp tác, cộng tác là điều kiện của phát triển. Mấy chục năm gần đấy hoạt động hợp tác khoa học của Viện gia tăng hiệu quả, là đi đúng trên con đường đó. Viện văn học, Tạp chí văn học dã xây dựng một mối quan hệ thân thiết với các khoa ngữ văn, văn học của các trường đại học trong cả nước.
Kỉ niệm 60 năm Viện văn học và Tạp chí nghiên cứu văn học, tôi nghĩ đến những bậc thầy, những đàn anh đáng kính đã ra đi, nhưng dấu ấn của họ vẫn còn đây đó. Tôi nhớ đến ngững cán bộ phụ trách và biên tập viên của tạp chí đã nghĩ hưu mà sự nhiệt tình, hòa nhã đã để lại những tình cảm ấm áp cho cộng tác viên. Tôi cũng nhớ đến những thế hệ cộng tác viên tài năng của tạp chí mà nay tuy đã khuất nhưng tên tuổi họ vẫn còn trên trang tạp chí. 60 năm Viện văn học là 60 năm cộng tác, hợp tác, tình nghĩa.
Tuy đã 60 năm, nhưng Viện văn học hôm nay tràn trề sức trẻ. Một thế hệ mới, có hành trang mới, biết rút bài học đã qua, biết kế thừa các thành tựu, tôi tin rằng Viện văn học và Tạp chí nghiên cứu văn học sẽ mở ra một giai đoạn mới trong sự nghiệp nghiên cứu văn học của mình và cũng là của chung đất nước.
Vài nét về Nam Trân Giới thiệu Nam Trân trong cuốn sách: Thi nhân Việt Nam hiện đại Học trò trong Quảng ra thi... Nam Trân: Con người tài hoa Một số nhà văn tuổi Mùi Hà nội, Đẹp và Thơ Đường phố Đà Nẵng mang tên danh nhân: Nhà thơ Nam Trân Người đương thời thơ mới bàn về thơ Nam Trân Nam Trân - sự gắn bó giữa không gian Huế và tâm hồn thi nhân Tìm lại Huế, Đẹp và Thơ - Giới thiệu tập thơ Nam Trân Nam Trân với Huế Hành xử và đóng góp của một trí thức yêu nước Diễn văn nhân kỷ niệm 100 năm sinh và 40 năm mất nhà thơ - dịch giả Nam Trân Người Quảng trên đất cố đô Đọc lại 'Huế, Đẹp và Thơ' của Nam Trân Kỷ niệm 100 năm ngày sinh cố nhà thơ - dịch giả Nam Trân Vài thổ âm, thổ ngữ của người Quảng "Người Xô Viết" với các nhà văn đất Quảng thời kháng chiến chống Pháp (1946-1954) Người phát hiện ra Huế đẹp và thơ Giới thiệu Nam Trân trong cuốn sách: Thi nhân Việt Nam hiện đại
01 Đẹp và Thơ - Cô gái Kim Luông 02 Sóng bạc tình 03 Vườn cau Nam Phổ 04 Huế, ngày hè 05 Huế, đêm hè 06 Huế, mưa dầm 07 Núi Ngự, sông Hương 08 Trước chùa Thiên Mụ 09 Cánh cửa 10 Mùa đông, cánh đồng An Cựu 11 Khiêu vũ 1935 12 Ngại ngùng khi bước chân ra 13 Trên núi Ngự 14 Giận khúc Nam ai 15 Hồ Tịnh Tâm hay chuồn chuồn 16 Tiếng chuông Diệu Đế 17 Khoá xuân 18 Hái hoa hồng 19 Liên tưởng 20 Nụ cười giai nhân 21Sơn còn ướt 22Cảnh quê 23Hà Nội, mưa phùn 24Nắng thu 25 Điếu thuốc cháy suông 26Anh chài tự đắc 27 Bài hát của đại phi công 28 Bài thơ nhất cú hay là nỗi khổ tâm của thi sĩ 29 Một câu thơ của ông Tú Mỡ 30 Bỏ quách lối thơ xưa 31 Eng 32 Gặp khách đong đưa 33 Cầu bạn 34 Đời người 35 Tôi và Ta 36 Chôn hoa 37Sầm Sơn trường hận
Huế - Miền đất ẩn tàng
chất liệu thi ca… Huế đẹp, Huế thơ!
Huế thơ & thơ Huế Với Huế hôm nay
Thương Về Huế
Những bến đò ngang Sông
Hương Thơ Hè
Hương thủy Người phụ nữ Huế trong
văn hóa Tên những nàng con gái
Huế một thuở nào Về Huế đọc thơ anh Tạo
Mèo Huế
700 năm Thuận Hóa Phú Xuân
Huế một “kho” tư liệu chưa từng có về triều Nguyễn và Huế xưa Trụ sở UBND thành phố
Huế sẽ thành Bảo tàng văn nghệ sĩ? Huế ngày tháng cũ Hò giã gạo
Bí mật về phi tần
"hầu hạ" vua VN GS Trần Quốc Vượng – Mấy vấn đề về vua Gia Long
Chùm thơ cho tuổi nhỏ Chuyện em Thanh (Nhặt được của rơi, trả người đánh mất) Mùa xuân trong vườn Em yêu mùa hè Sức mồ hôi Bàn tay mẹ Chớm thu Tựu trường
Những bài học về văn hóa và ngôn ngữ từ một lời cảm ơn của chủ tịch Hồ Chí Minh Nhật kí trong tù tròn bảy mươi năm (1943-2013) 70 năm Ngục trung nhật ký Kỷ niệm 70 năm "Ngục trung nhật ký": Sự trở lại của một kích thước lớn “Nhật ký trong tù” – 70 năm sáng mãi tinh thần lạc quan của Bác 60 năm Ngày Bác Hồ viết bài cuối của tập thơ Nhật ký trong tù (10/9/1943 - 10/9/2003) Nam Trân và bản dịch Nhật ký trong tù Sự bất hủ của Nhật ký trong tù Sức lan tỏa của một hồn thơ lớn Trở lại hành trình của nguyên tác Ngục trung nhật ký Nhật ký trong tù có 133 hay 134 bài ? Nhà xuất bản Văn học tiếp thu phê bình về việc tái bản Nhật ký trong tù Đọc lại bài thơ Khán “thiên gia thi” hữu cảm (Nhân 70 năm Nhật ký trong tù) Dịch thơ: nói dễ, làm khó! “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 1: Tan một nguyên tác thơ Hồ Chí Minh “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 2: Đạo văn để bình văn “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 3: Không có chữ dạy người biết chữ “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 4: Đạo đồ giả và sáng tạo nhầm Trở lại "số phận" Nhật ký trong tù Ra mắt tác phẩm “Nhật ký trong tù” của Hồ Chủ tịch ở Cộng hòa Czech Vu cáo chính trị – mập mờ học thuật
Phát huy vai trò nhân sĩ trí thức trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc Hội Nhà văn Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động lý luận, phê bình văn học Văn học kháng chiến chống Pháp ở Bình Thuận 60 năm Viện văn học và tạp chí nghiên cứu văn học Nhà văn Phan Thao lấy vợ Tế Hanh và câu chuyện tình của Phan Thao Dấu ấn văn học kháng chiến Liên khu V
Năm mới nhớ về một thời gian khó Bao cấp Tranh cổ động – chiến tranh 1 Tranh cổ động về cuộc chiến tranh Tranh cổ động lao động - sản xuất Tranh cổ động về lãnh tụ Tranh cổ động tổng hợp Đinh Bộ Lĩnh - Cờ lau dựng nước Tranh cổ động thời kháng chiến chống Pháp
Ra mắt hai cuốn Sưu tập Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1933-1934 và Tác phẩm đăng báo 1935 Chế Lan Viên Tấm chân tình đằng sau những tiếng cười Nữ sĩ Anh Thơ: Đa tài, đa tình, nhưng cũng đa đoan
Qua đèo Ngang Hai sắc hoa ti gôn Người vợ (Nguyễn Khải)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)