Nam Trân

Nam Trân

Thứ Năm, 20 tháng 6, 2013

Diễn văn nhân kỷ niệm 100 năm sinh và 40 năm mất nhà thơ - dịch giả Nam Trân



Diễn văn nhân kỷ niệm 100 năm sinh và 40 năm mất nhà thơ - dịch giả Nam Trân






Kính thưa quý vị đại biểu! Thưa đại diện gia đình nhà thơ Nam Trân! Hôm nay, Viện Văn học, Hội nhà văn Việt Nam và gia đình phối hợp tổ chức Lễ tưởng niệm và Hội thảo khoa học kỷ niệm 100 năm sinh và 40 năm mất nhà thơ - dịch giả Nam Trân. Nhà thơ Nam Trân tên thật là Nguyễn Học Sĩ, sinh ngày 15 tháng Hai năm 1907 trong một gia đình khoa bảng nhiều đời tại làng Phú Thứ Thượng, xã Đại Quang, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ học chữ Hán đến 12 tuổi, rồi ra học Trường Quốc học Huế, Trường Bưởi ở Hà Nội. Sau khi đỗ Tú tài, ông nhận chức Tham tá Tòa Khâm sứ Trung kỳ tại Huế. Từng làm Án sát Bình Định rồi lần lượt trải qua các chức vụ quan trọng của Nam triều như: Tá lý Bộ Lại, Thị lang Bộ Lại, đứng vào hàm Tam phẩm... Sau Cách mạng tháng Tám, Nam Trân trở về quê hương Quảng Nam. Ông tham gia chính quyền cách mạng ngay từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, trải qua các công tác trong Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Đại Lộc, Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Nam, Chánh văn phòng Ủy ban hành chính kháng chiến Liên khu V, Đại diện văn hóa Trung ương tại Liên khu V. Hòa bình lập lại, 1954, Nam Trân cùng gia đình tập kết ra Bắc, công tác tại Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Văn phòng Hội đồng Hòa bình thế giới tại Việt Nam, là Uỷ viên Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa I. Năm 1959, Viện Văn học thành lập, ông là một trong số các nhà Hán học có uy tín được điều về bổ sung vào đội ngũ cán bộ, chuyên gia đầu tiên của Viện, nhận nhiệm vụ Trưởng phòng tư liệu thư viện. Tại đây, ông đã cùng các đồng nghiệp - mà ông vẫn thường gọi là “đồng chí”- bắt tay bổ sung, sắp xếp, phân loại, kiện toàn hệ thống sách báo tư liệu, đồng thời tổ chức công việc biên dịch, dịch thuật khối lượng sách báo tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Trung ... cung cấp nguồn tư liệu cho công việc nghiên cứu của các tổ chuyên môn. Cuối năm 1959, Nam Trân được giao nhiệm vụ đặc biệt: làm Trưởng Tiểu ban và là người dịch chính tập thơ Ngục trung nhật ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra tiếng Việt. Bằng vốn tri thức uyên thâm và xúc cảm thẩm mỹ văn chương mạnh mẽ, ông đã cùng các cộng sự hoàn thành công việc một cách khẩn trương và xuất sắc để tập thơ kịp ra mắt bạn đọc đúng dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 70 của Hồ Chủ tịch, tháng Năm 1960. Nhật ký trong tù ra đời là một sự kiện lớn trong đời sống chính trị văn hóa và văn học nghệ thuật của đất nước, đem đến cho các thế hệ công dân Việt Nam nguồn năng lượng tinh thần mới, bầu nhiệt huyết cách mạng mới khi đất nước vừa bước vào giai đoạn xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống nhất nước nhà. Đây là một công việc thầm lặng nhưng lại có ý nghĩa sâu sắc trong suốt cuộc đời đi theo cách mạng và đứng trong đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ cách mạng của ông. Nhật ký trong tù ra mắt đã nhanh chóng được đông đảo quần chúng hào hứng đón nhận, được dịch ra tiếng Anh, Nga, Pháp..., in nguyên văn tiếng Trung tại nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, phổ biến rộng rãi tại các nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ. Cho đến nay, tập thơ đã được dịch ra gần 20 ngôn ngữ trên thế giới. Ngoài bản dịch Nhật ký trong tù để đời, Nam Trân còn chủ trì biên dịch hai tập Thơ Đường (NXB Văn hóa, 1962), dịch và duyệt tập Thơ Tống (NXB Văn học, Hà Nội, 1968), dịch giả chính tập truyện ngắn Người Xô - viết chúng tôi của nhà văn Bôrit Pôlêvôi (quyển 1, 2, Hà Nội, 1961), Thơ và từ Mao trạch Đông v.v. Các bản dịch của ông đều được người đọc ưa thích, cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Qua đó có thể thấy ở ông một cây bút tài hoa, giàu bản sắc, với năng lực cảm thụ tinh tế, cách sử dụng ngôn từ cẩn trọng, với trình độ am hiểu các tri thức Hán học, Pháp học sâu rộng, và trên hết, ông là một dịch giả giàu tâm huyết trong việc truyền bá văn hóa các dân tộc anh em cho bạn đọc trong nước. Thưa quý vị đại biểu, Đối với độc giả yêu thơ, tên tuổi Nam Trân đã xuất hiện khá sớm trên văn đàn từ những năm 30-40 đầu thế kỷ XX. Thơ ông xuất hiện thường xuyên trên các báo: Nam phong tạp chí, Văn học tạp chí, Phong Hóa, Tràng An, Sông Hương, Tân Tiến (Sa-đéc) v.v… Tập thơ đầu tay, cũng là tập thơ duy nhất Nam Trân góp vào thi đàn là Huế, Đẹp và Thơ (NXB Trung Bắc tân văn, Hà Nội, 1939). Huế, Đẹp và Thơ gồm 37 bài, chủ yếu là những sáng tác về con người và cảnh vật xứ Huế bình dị mà trữ tình. Nhà thơ sớm nhận ra sự phóng túng cởi mở của thơ tự do Pháp cả về phương diện nội dung cũng như hình thức, ông ngay lập tức thể nghiệm một lối Thơ Mới cho ngòi bút của mình và là một trong những người đầu tiên bước vào địa hạt của một thể loại thơ ca rực rỡ bậc nhất trong lịch sử thơ ca hiện đại Việt Nam với “lối thơ tả chân biệt thành một lối” (Hoài Thanh). Sự xuất hiện của thơ Nam Trân, đặc biệt là của Huế, Đẹp và Thơ vào thời điểm những năm đầu của Thơ Mới đã gây được tiếng vang, thu hút sự chú ý rộng rãi của độc giả. Năm 1942, Huế, Đẹp và Thơ vinh dự được Hoài Thanh, Hoài Chân trích tuyển 7 bài vào Thi nhân Việt Nam, số lượng bài tuyển chỉ đứng sau Chế Lan Viên, Nguyễn Bính 1 bài. Cùng Lưu Trọng Lư đứng hàng thứ sáu trong tổng số 46 tác giả có thơ tuyển. Thưa quý vị đại biểu, Không chỉ là nhà thơ, dịch giả, nhà nghiên cứu Hán Nôm; từng trải qua công tác tư liệu thư viện, từng kế tục nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại phụ trách Ban Văn học Cổ cận đại, góp phần vào việc dịch Thơ văn Lý -Trần..., từ năm 1965, Nam Trân còn tham gia giảng dạy Kinh thi và Đường thi tại lớp Đại học Hán học đầu tiên do Nhà nước ủy nhiệm cho Viện Văn học tổ chức (1965-1968). Ông cùng các bậc túc nho như Cao Xuân Huy, Phạm Thiều, Nguyễn Đức Vân, Đào Phương Bình ... góp nhiều tâm sức trong việc đào tạo một đội ngũ cán bộ có trình độ Hán học, có kiến thức Đông phương cho đất nước. Sau này, nhiều người đã thành danh trên các lĩnh vực khoa học xã hội Việt Nam. Nhưng thật đáng tiếc, thày Nam Trân đã không thể cùng học trò theo đuổi cho đến cùng khóa học, cũng như ông đã không thể đi tiếp con đường dịch thuật, nghiên cứu... vốn là niềm say mê lớn của chặng cuối đời ông. Ông mắc trọng bệnh và từ giã gia đình, bè bạn, học trò... vào một ngày Đông tháng 12 năm 1967, tính đến nay đã vừa chẵn 40 năm. Thưa quý vị, Đóng góp của Nam Trân cho sự nghiệp thơ ca, dịch thuật nói chung, cho công tác giảng dạy, nghiên cứu của Viện Văn học nói riêng, có ý nghĩa quan trọng, nhất là vào thời điểm đặt nền móng cho một nền văn hóa học thuật đa dạng mở ra trên miền Bắc. Để tôn vinh những đóng góp quý báu của ông, hôm nay chúng ta cùng nhau ôn lại những kỷ niệm, hồi ức về một Nam Trân - nhà thơ, dịch giả, một người thày yêu kính của chúng ta. Sự hiện diện của các nhà nghiên cứu, nhà văn, học trò, đồng nghiệp và người thân trong Lễ tưởng niệm và Hội thảo khoa học nhân dịp kỷ niệm 100 năm sinh và 40 năm mất nhà thơ, thêm một lần nữa xác nhận những cống hiến quan trọng của ông cho lịch sử văn chương, học thuật nước nhà. Thành quả lao động khoa học và sáng tạo nghiêm túc của ông mãi mãi sẽ còn là món quà tinh thần cho các thế hệ đi sau. Xin trân trọng cảm ơn.
Diễn văn khai mạc của Viện trưởng Viện Văn học PGS.TS Phan Trọng Thưởng



Vài nét về Nam Trân Học trò trong Quảng ra thi... Nam Trân: Con người tài hoa Một số nhà văn tuổi Mùi Hà nội, Đẹp và Thơ Đường phố Đà Nẵng mang tên danh nhân: Nhà thơ Nam Trân  Người đương thời thơ mới bàn về thơ Nam Trân Nam Trân - sự gắn bó giữa không gian Huế và tâm hồn thi nhân Tìm lại Huế, Đẹp và Thơ - Giới thiệu tập thơ Nam Trân Nam Trân với Huế Hành xử và đóng góp của một trí thức yêu nước Diễn văn nhân kỷ niệm 100 năm sinh và 40 năm mất nhà thơ - dịch giả Nam Trân Người Quảng trên đất cố đô


Đẹp và Thơ - Cô gái Kim Luông Anh chài tự đắc Bài hát của đại phi công Bài thơ nhất cú hay là nỗi khổ tâm của thi sĩ Bỏ quách lối thơ xưa Cánh cửa Cảnh quê Cầu bạn Chôn hoa Điếu thuốc cháy suông Đời người Eng Gặp khách đong đưa Giận khúc Nam ai Hà Nội, mưa phùn Hái hoa hồng Hồ Tịnh Tâm hay chuồn chuồn Huế, đêm hè Huế, mưa dầm Huế, ngày hè Khiêu vũ 1935 Khoá xuân Liên tưởng Một câu thơ của ông Tú Mỡ Mùa đông, cánh đồng An Cựu  Nắng thu Núi Ngự, sông Hương Ngại ngùng khi bước chân ra Sầm Sơn trường hận  Sóng bạc tình Sơn còn ướt Tiếng chuông Diệu Đế Trên núi Ngự Trước chùa Thiên Mụ Vườn cau Nam Phổ

Chuyện em Thanh (Nhặt được của rơi, trả người đánh mất) Mùa xuân trong vườn Em yêu mùa hè Sức mồ hôi Bàn tay mẹ Chớm thu Tựu trường

Những bài học về văn hóa và ngôn ngữ từ một lời cảm ơn của chủ tịch Hồ Chí Minh Nhật kí trong tù tròn bảy mươi năm (1943-2013) 70 năm Ngục trung nhật ký Kỷ niệm 70 năm "Ngục trung nhật ký": Sự trở lại của một kích thước lớn  “Nhật ký trong tù” – 70 năm sáng mãi tinh thần lạc quan của Bác 60 năm Ngày Bác Hồ viết bài cuối của tập thơ Nhật ký trong tù (10/9/1943 - 10/9/2003)  Nam Trân và bản dịch Nhật ký trong tù Sự bất hủ của Nhật ký trong tù Sức lan tỏa của một hồn thơ lớn Trở lại hành trình của nguyên tác  Ngục trung nhật ký  Nhật ký trong tù có 133 hay 134 bài ? Nhà xuất bản Văn học tiếp thu phê bình về việc tái bản Nhật ký trong tù Đọc lại bài thơ Khán “thiên gia thi” hữu cảm (Nhân 70 năm Nhật ký trong tù) Dịch thơ: nói dễ, làm khó! “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 1: Tan một nguyên tác thơ Hồ Chí Minh “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 2: Đạo văn để bình văn “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 3: Không có chữ dạy người biết chữ “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 4: Đạo đồ giả và sáng tạo nhầm Trở lại "số phận" Nhật ký trong tù Ra mắt tác phẩm “Nhật ký trong tù” của Hồ Chủ tịch ở Cộng hòa Czech Vu cáo chính trị – mập mờ học thuật

Phát huy vai trò nhân sĩ trí thức trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc Hội Nhà văn Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động lý luận, phê bình văn học Văn học kháng chiến chống Pháp ở Bình Thuận 60 năm Viện văn học và tạp chí nghiên cứu văn học

 

Năm mới nhớ về một thời gian khó  Bao cấp

Ra mắt hai cuốn Sưu tập Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1933-1934 và Tác phẩm đăng báo 1935 Chế Lan Viên Tấm chân tình đằng sau những tiếng cười Nữ sĩ Anh Thơ: Đa tài, đa tình, nhưng cũng đa đoan

Qua đèo Ngang Hai sắc hoa ti gôn Người vợ (Nguyễn Khải)

Một người Hà Nội- Nguyễn Khải Đi tìm cái tôi đã mất (Nguyễn Khải) Dại khôn Nguyễn Khải Hồi kí của Nguyễn Đăng Mạnh về Nguyễn Khải Muối của rừng (Nguyễn Huy Thiệp) Tuổi 50 Làm sao cho người Việt tin nhau?

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét