Nam Trân

Nam Trân

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2013

Người phát hiện ra Huế đẹp và thơ



Người phát hiện ra Huế đẹp và thơ
Từ năm 1942, các tác giả Thi nhân Việt Nam đã khẳng định: “Tả cảnh Huế chưa ai bằng Nam Trân (…) Nam Trân đã tìm ra một khoảnh đất mới và ở đó, người đã dựng lên-ý chừng để sát nhập vào làng thơ Việt-cái cảnh núi Ngự sông Hương. Thiết tưởng vì tình láng giềng đất Quảng Nam không thể gửi ra xứ Huế món quà nào quý hơn nữa: lần thứ nhất những vẻ đẹp của xứ này được diễn ra thơ”(TNVN, tr.181).
Đúng là Huế đẹp và nên thơ là câu nói cửa miệng, là ý nghĩ thường trực trong tâm tưởng của mọi người, mỗi khi nhớ đến Huế. Nhưng ít ai phả cảm xúc thành nội dung mỹ cảm, đúc kết thành câu chữ, thành thơ, thành hình tượng, không chỉ vượt được thử thách của thời gian, lan tỏa trong không gian, mà còn đi sâu vào tiềm thức, thành vô thức dân gian, vô thức tập thể, có sức sống bền vững trong tâm thức mọi người như thế này:
Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng
Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo
Tôi xuống thuyền cô, cô chẳng biết
Rằng Thơ thấy Đẹp phải tìm theo
Thuyền qua đến bến: cô lui lại
Vẩy chiếc chèo ngang: giọt nước gieo
Đăm đăm mắt mỏi vì chèo,
Chèo cô quấy nước trong veo giữa dòng
Biết không? Cô hỡi, biết không?
Chèo cô còn quấy, sóng lòng còn xao!
Nam Trân Nguyễn Học Sĩ (1907-1967) sinh ra ở làng Phú Thứ Thượng, Đại Quang, Đại Lộc, Quảng Nam, chỉ sống ở Huế trong một thời gian ngắn lúc còn học trường Quốc Học và mấy năm làm Tham tá ở tòa Khâm sứ Huế. Ngay cả bút danh Nam Trân đã biểu hiện những tình cảm gắn bó của ông với xứ Huế. Tương truyền, trên bước đường chinh chiến, có lần Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi, chạy vào vùng núi Đại Lộc quê ông, đói khát đến lả người, hái trái lòn bon ăn qua cơn đói. Vì vậy, sau khi lên ngôi, vua Gia Long ban cho loại trái cây này tên là Nam Trân (vật quý của xứ Quảng Nam) và được chạm khắc vào Nhân đỉnh (một trong Cửu Đỉnh). Ngoài mấy tập thơ dịch (Nhật ký trong tù, Thơ Đường, Thơ Tống), sự nghiệp sáng tác của ông chỉ vỏn vẹn có 50 bài thơ in rải rác trên các báo và tạp chí như Nam Phong tạp chí, Văn học tạp chí, Phong Hóa, Tràng An, Sông Hương và Tân Tiến (Sa Đéc) gom lại in thành tập Huế Đẹp và Thơ (1939) mà đi vào sử sách. Tập thơ ra đời trong bối cảnh phong trào thơ mới đang suy tàn, đi vào tượng trưng, nhục cảm, nhưng vẫn giữ được hơi thơ trong trẻo, xúc cảm chân thành, lời thơ giản dị, thanh thoát, toát lên vẻ đẹp ấm áp của ánh nắng mùa xuân (Trước chùa Thiên Mụ, Tiếng chuông Diệu Đế, Cô gái Kim Luông, Giận khúc Nam ai, Nắng thu…). Nếu đòi hỏi khắt khe về phương diện nghệ thuật, có thể thấy vài câu còn thiếu sự gọt giũa về từ ngữ, nhưng cái nhìn thực tại thể hiện một cảm quan hết sức hiện đại: Huế phượng, như giọt huyết / Rỏ xuống phủ lề đường / Mặt trời gay gay đỏ / Nhuộm đỏ góc sông Hương (Huế, ngày hè), hoặc đôi khi dẫn dắt cảm thức người đọc quay lại nhìn dấu vết lịch sử của một thời đã qua như đường nét trên những công trình kiến trúc đền đài lăng tẩm, thông qua chân dung người phụ nữ xưa đang rao quà vặt: Hai tay xách hai vịm / Một vài mụ le te / Tiếng non rao lảnh lói / Chốc chốc: Ai ăn chè? (Huế, đêm hè). Huế trong thơ Nam Trân không chỉ đẹp và thơ, mà còn in dấu bước thời gian, soi bóng dáng của không gian, sóng sánh dưới dòng sông trong xanh muôn đời lững lờ xuôi về biển cả. Điều lạ lùng là, nước sông luôn hòa tan vào biển, nhưng không bao giờ biển có thể nhạt hơn, biển muôn đời vẫn mặn mà, sôi động, trước sự ngọt ngào, dịu dàng đến mức đánh mất cả bản thân mình của những dòng sông.
Cuộc đời của Nam Trân, từ sau cách mạng (1945) kinh qua nhiều cương vị công tác trong Ủy ban Hành chính kháng chiến huyện Đại Lộc, Ủy ban Hành chính kháng chiến tỉnh Quảng Nam, rồi làm Chánh Văn phòng Ủy ban Hành chính kháng chiến liên khu Năm, kiêm Hội trưởng Hội Văn nghệ liên khu Năm. Sau 1954, ra Bắc, ông trở lại với văn chương, làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa II, về công tác ở Viện Văn học (1959-1967), phụ trách tiểu ban dịch thơ chữ Hán, tham gia giảng dạy lớp đại học Hán học đầu tiên (1965-1968) và là người đầu tiên dịch Nhật ký trong tù ra chữ quốc ngữ. Điều thú vị là, ngay ở lần in đầu và cả những lần tái bản gần đây, người ta vẫn dùng bản dịch tài hoa của Nam Trân, in kèm với bản chữ Hán qua “nét bút tài hoa của cụ Phạm Phú Tiết” (Lời nói đầu Nhật ký trong tù), một người đồng hương của chính dịch giả.
Theo Phạm Phú Phong – Báo Thừa Thiên Huế



Vài nét về Nam Trân Học trò trong Quảng ra thi... Nam Trân: Con người tài hoa Một số nhà văn tuổi Mùi Hà nội, Đẹp và Thơ Đường phố Đà Nẵng mang tên danh nhân: Nhà thơ Nam Trân  Người đương thời thơ mới bàn về thơ Nam Trân Nam Trân - sự gắn bó giữa không gian Huế và tâm hồn thi nhân Tìm lại Huế, Đẹp và Thơ - Giới thiệu tập thơ Nam Trân Nam Trân với Huế Hành xử và đóng góp của một trí thức yêu nước Diễn văn nhân kỷ niệm 100 năm sinh và 40 năm mất nhà thơ - dịch giả Nam Trân Người Quảng trên đất cố đô Đọc lại 'Huế, Đẹp và Thơ' của Nam Trân Kỷ niệm 100 năm ngày sinh cố nhà thơ - dịch giả Nam Trân Vài thổ âm, thổ ngữ của người Quảng "Người Xô Viết" với các nhà văn đất Quảng thời kháng chiến chống Pháp (1946-1954)  Người phát hiện ra Huế đẹp và thơ

 

Đẹp và Thơ - Cô gái Kim Luông Anh chài tự đắc Bài hát của đại phi công Bài thơ nhất cú hay là nỗi khổ tâm của thi sĩ Bỏ quách lối thơ xưa Cánh cửa Cảnh quê Cầu bạn Chôn hoa Điếu thuốc cháy suông Đời người Eng Gặp khách đong đưa Giận khúc Nam ai Hà Nội, mưa phùn Hái hoa hồng Hồ Tịnh Tâm hay chuồn chuồn Huế, đêm hè Huế, mưa dầm Huế, ngày hè Khiêu vũ 1935 Khoá xuân Liên tưởng Một câu thơ của ông Tú Mỡ Mùa đông, cánh đồng An Cựu  Nắng thu Núi Ngự, sông Hương Ngại ngùng khi bước chân ra Sầm Sơn trường hận  Sóng bạc tình Sơn còn ướt Tiếng chuông Diệu Đế Trên núi Ngự Trước chùa Thiên Mụ Vườn cau Nam Phổ

Chuyện em Thanh (Nhặt được của rơi, trả người đánh mất) Mùa xuân trong vườn Em yêu mùa hè Sức mồ hôi Bàn tay mẹ Chớm thu Tựu trường

Những bài học về văn hóa và ngôn ngữ từ một lời cảm ơn của chủ tịch Hồ Chí Minh Nhật kí trong tù tròn bảy mươi năm (1943-2013) 70 năm Ngục trung nhật ký Kỷ niệm 70 năm "Ngục trung nhật ký": Sự trở lại của một kích thước lớn  “Nhật ký trong tù” – 70 năm sáng mãi tinh thần lạc quan của Bác 60 năm Ngày Bác Hồ viết bài cuối của tập thơ Nhật ký trong tù (10/9/1943 - 10/9/2003)  Nam Trân và bản dịch Nhật ký trong tù Sự bất hủ của Nhật ký trong tù Sức lan tỏa của một hồn thơ lớn Trở lại hành trình của nguyên tác  Ngục trung nhật ký  Nhật ký trong tù có 133 hay 134 bài ? Nhà xuất bản Văn học tiếp thu phê bình về việc tái bản Nhật ký trong tù Đọc lại bài thơ Khán “thiên gia thi” hữu cảm (Nhân 70 năm Nhật ký trong tù) Dịch thơ: nói dễ, làm khó! “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 1: Tan một nguyên tác thơ Hồ Chí Minh “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 2: Đạo văn để bình văn “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 3: Không có chữ dạy người biết chữ “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 4: Đạo đồ giả và sáng tạo nhầm Trở lại "số phận" Nhật ký trong tù Ra mắt tác phẩm “Nhật ký trong tù” của Hồ Chủ tịch ở Cộng hòa Czech Vu cáo chính trị – mập mờ học thuật

Phát huy vai trò nhân sĩ trí thức trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc Hội Nhà văn Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động lý luận, phê bình văn học Văn học kháng chiến chống Pháp ở Bình Thuận 60 năm Viện văn học và tạp chí nghiên cứu văn học

Năm mới nhớ về một thời gian khó  Bao cấp

Ra mắt hai cuốn Sưu tập Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1933-1934 và Tác phẩm đăng báo 1935 Chế Lan Viên Tấm chân tình đằng sau những tiếng cười Nữ sĩ Anh Thơ: Đa tài, đa tình, nhưng cũng đa đoan

Qua đèo Ngang Hai sắc hoa ti gôn Người vợ (Nguyễn Khải)

Một người Hà Nội- Nguyễn Khải Đi tìm cái tôi đã mất (Nguyễn Khải) Dại khôn Nguyễn Khải Hồi kí của Nguyễn Đăng Mạnh về Nguyễn Khải Muối của rừng (Nguyễn Huy Thiệp) Tuổi 50 Làm sao cho người Việt tin nhau?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét