Giới thiệu tập thơ Nam Trân
TÌM LẠI Huế, Đẹp và Thơ
(Lời
giới thiệu
cho lần in thứ ba Huế,
Đẹp và Thơ,
nhà xuất bản Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2007)
nhà xuất bản Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2007)
ĐÀO THÁI TÔN
Huế, Đẹp và
Thơ ra đời (1939) đã
gây một gây tiếng vang trên thi đàn vào
buổi bình minh của Thơ Mới. Tản Đà ưu ái
ngợi khen. Trước đó ba năm, năm 1936, khi Nam Trân
in những bài thơ đầu trình diện làng thơ
trên báo, Phan Khôi cũng đã có bài
viết tán thưởng. Tuy nhiên, hai bậc cựu nho đều
trách Nam Trân “ chưa
dụng công về vần ”.
Nam Trân nhũn nhặn nói với bạn
bè : “ Ông Chương Dân
và ông Tản
Đà trách tôi không dụng tâm về
vần, lời trách ấy thật xác đáng. Nhưng
xin thú thật, đối với thơ, tôi trọng nhất là
nhạc điệu, thứ hai là ý tưởng, thứ ba là
vần. Có lẽ vì thế mà tôi không
phải là một thi gia, nhất là một thi gia theo
luật thơ chuyên chế đời Đường ”.
Chúng ta cần phải hiểu ý của
câu trả lời mềm mỏng nhã nhặn của Nam Trân
: vốn là người hiểu sâu sắc thơ cổ Trung
Quốc nhưng thơ Pháp đã giúp ông thoát
khỏi sự gò bó của luật thơ “ chuyên
chế ” đời Đường đã đến buổi suy tàn để
hướng tới vần thơ rộng rãi của phong trào
Thơ Mới ; câu trả lời ẩn chứa sự mẫn cảm của
người đã nhận ra và thể nghiệm thành
công sự chuyển mình mạnh mẽ về bút pháp
để hòa nhập vào “ một thời đại trong thi
ca ”. Huế, Đẹp và Thơ là một trong những
tiếng chim gọi đàn. Còn việc có phải là
một thi gia hay không thì đâu phải tự nhận
mà được.
Hoài Thanh rất hiểu Nam Trân. Ông
lập tức nhận ra Huế,
Đẹp và Thơ như một gương
mặt đặc sắc trong phong trào Thơ Mới, và chỉ
đến Nam Trân “ lối thơ
tả chân mới biệt
thành một lối ”, nên đã xếp Nam Trân
làm “ trùm xóm ” thơ xứ Huế ; bởi, với
Huế,
Đẹp và Thơ, Nam Trân đã khắc hoạ
được cảnh, tình riêng của vùng đất cố
đô, cũng như giờ đây chỉ với một “ Hà
Nội mùa thu cây cơm nguội vàng, cây
bàng lá đỏ ”... ta tưởng đâu như Trịnh
Công Sơn là người của đất Hà Thành.
*
Thi nhân Việt
Nam cho biết : “ Nam
Trân
chính tên là Nguyễn Học Sỹ. Sinh ngày
15 février 1907 ở làng Phú Thứ thượng,
huyện Đại Lộc (Quảng Nam). Học chữ Hán đến 12
tuổi và đã tập làm những lối văn
trường ốc. Sau học trường Quốc học Huế, trường Bảo
hộ Hà Nội. Có bằng tú tài bản xứ.
Hiện làm tham tá toà Khâm sứ Huế ”.
Trong bản in Huế, Đẹp và
Thơ năm
1997, Nxb. Văn học có ghi : theo “ lời
chú in
lần thứ hai Thi nhân
Việt Nam thì Nam Trân
đã được cải bổ vào chính phủ Nam
triều, hiện giữ chức Tá lý bộ Lại ” (1).
Nhưng trong nhà thờ ở quê ông, hiện còn
hai tấm biển gỗ sơn son thiếp vàng. Tấm thứ nhất
do Bố chánh Nguyễn Tiến Lãng tặng ; tấm thứ
hai là bài thơ chữ Nôm, do Nguyễn Hữu Tú
tặng, cho thấy năm 1944 Nam Trân được thăng chức
Thị lang bộ Lại.
Như vậy đúng là khi đưa in Huế,
Đẹp và Thơ, Nam Trân làm Tham tá tòa
Khâm sứ Huế. Khi xưa, Tham tá là quan chức
cao cấp, phải có bằng Tú tài, nhưng sau
đã được cải bổ sang ngạch quan lại của Nam
triều và làm đến Thị lang bộ Lại.
Chúng ta đã có thêm tư
liệu mới, bổ sung vào tiểu sử nhà thơ. Nhưng
sinh thời, nhà thơ Nam Trân không quan tâm
gì đến việc này vì làm quan triều
Nguyễn không phải là việc đáng tự hào
một khi đã đi theo Cách mạng. Vì thế,
trước đây hơn 40 năm, từ 1965 đến 1967, chúng
tôi chỉ biết ông là thầy dạy Kinh thi, Thơ
Đường, là dịch giả tập thơ Nhật ký trong
tù và hai tập Thơ Đường nổi
tiếng. Ông
sống cuộc sống giản dị ở Viện Văn học với gần ba
chục học trò, cùng ở nhờ nhà dân
trong những năm chiến tranh tại khu sơ tán. Ông
luôn gọi học trò là “ đồng chí ”.
Nhưng các “ đồng chí ” của ông cũng
không ai biết đến Huế, Đẹp và
Thơ.
Điều này cũng dễ hiểu. Thời đại
mới đòi hỏi nền văn học mới. Sau cách mạng
Tháng Tám là chín năm kháng
chiến. Từ sau 1954, ngay khi hòa bình lập lại
trên miền Bắc là những cơn lốc về xã
hội, tinh thần : Cải cách ruộng đất ; đấu tranh
chống Nhân văn giai phẩm ; cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh ; phong trào Hợp tác hoá,
thi đua xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa...
Từ 1965 bắt đầu bước vào cuộc
kháng chiến chống Mỹ, lớp lớp thanh niên lại
ra trận, hát vang “ đường ra trận mùa này
đẹp lắm ”... “ ta đi theo ánh lửa từ trái
tim mình ”... nghĩa là gần bốn thập kỷ, không
ai còn tâm trí nào để ngoái lại
một thời văn học đã xa hay lục tìm “ Thơ
Mới ” mà nhâm nhi thưởng thức nữa.
Trong hoàn cảnh khách quan (và
cả chủ quan) ấy, Huế, Đẹp và
Thơ cũng như nhiều
thi phẩm hay khác đành phải nằm dưới lớp
bụi của thời gian, trước tâm thế thời cuộc. Đến
như trong lĩnh vực phê bình, Hoài Thanh cũng
đã phải công khai phủ nhận một cách
thành thực Thi
nhân Việt Nam, tác phẩm làm
nên văn nghiệp của đời ông (2). Chúng tôi
không được biết đến Huế, Đẹp và
Thơ cũng
phải.
Thơ Nam Trân được tuyển qua các
giai đoạn, như sau :
- Năm
1942, Thi
nhân Việt Nam tuyển 7
bài : 1. Đẹp và thơ ;
2. Huế, ngày hè
;
3. Huế, đêm hè ;
4. Trước chùa Thiên
Mụ ; 5. Mùa
đông ; 6. Giận
khúc Nam Ai ; 7.
Nắng thu.
- Năm
1976 cuốn Hợp
tuyển thơ văn Việt
Nam 1920 – 1945 tuyển 4 bài ;
- Năm
1995 cuốn Một
thế kỷ thơ Việt 1900
- 2000 tuyển 2 bài ;
- Năm
2005 cuốn Một
trăm năm thơ đất
Quảng tuyển 5 bài.
Hình như cuốn năm 1976 và 2005 đã
tuyển thơ từ Thi
nhân Việt Nam. Bản in 1995 thêm
được 1 bài mới : Cánh
cửa. Như vậy, suốt
hơn 60 năm, người đọc tiếp nhận thơ Nam Trân chỉ
qua 8 bài từ các tuyển tập.
*
Sau công cuộc Đổi mới, nhân kỉ
niệm 80 năm sinh nhà văn Hoài Thanh (1909-1989),
lần đầu tiên Nxb. Văn học in lại Thi nhân Việt
Nam. Số lượng in 15.000 bản.
Nam Trân thì muộn hơn. Phải sau 30
năm ông qua đời, nhân dịp Hội Nhà
văn tổ chức lễ tưởng niệm 90 năm năm sinh và 30
năm năm mất (1997), Huế, Đẹp và
Thơ mới được
in lại. Đề là 1.000 bản. Nhưng “do sơ suất ở
khâu sửa bài”, Nxb. Văn học phải dán
thêm tờ đính chính mà đính
chính chưa hết. Điều băn khoăn nữa là Nhà
xuất bản không cho biết in theo bản nào, có
sửa chữa, thêm bớt gì so với bản in đầu -
trong khi Nam Trân cho biết, “ hầu
hết thảy những
bài trong tập thơ này đã đăng trong các
báo chí : An-nam tạp-chí, Văn-học tạp-chí,
Tràng-an báo, Phong-hoá, Sông-hương và
Tân-tiến (Sadec) v.v...” nhưng khi so các bài
thơ in năm 1997 với các bài in trên mặt
báo, thấy có những chữ khác biệt. Một
số từ ngữ Huế trên báo, vào tập thơ
biến thành từ ngữ Hà Nội. Tiêu đề bài
thơ đôi khi cũng có chút thay đổi. Vậy
tác giả hay biên tập sửa ?
Ai cũng biết rằng với thơ, một dấu phảy
( , ) cũng đủ “ sai một ly đi một dặm ”. Vì
thế, chúng tôi chú tâm tìm bản
in lần đầu. Rồi mong ước cũng đến. Tháng 4 năm
nay, qua nhà văn Quang Hà, chúng tôi được
nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân gửi cho
tập Huế,
Đẹp và Thơ ông còn lưu giữ
được. Tại trang 5, có ba dòng thông báo :
ĐƯƠNG SOẠN
HUẾ , ĐẸP Và THƠ
(Tập thứ hai) (3)
HUẾ , ĐẸP Và THƠ
(Tập thứ hai) (3)
Trang cuối ghi rõ :
“SÁCH NÀY IN XONG NGÀY 15
Février 1939
TẠI NHÀ IN TRUNG-BẮC TÂN-VĂN, 107 PHỐ HÀNG BUỒM, HANOI,
SÁCH IN RA 1000 CUỐN BẰNG GIẤY BOUFFANT
Và 5 CUỐN BẰNG GIẤY VERGÉ BAROQUE (4) ĐÁNH SỐ TỪ I ĐẾN V”
TẠI NHÀ IN TRUNG-BẮC TÂN-VĂN, 107 PHỐ HÀNG BUỒM, HANOI,
SÁCH IN RA 1000 CUỐN BẰNG GIẤY BOUFFANT
Và 5 CUỐN BẰNG GIẤY VERGÉ BAROQUE (4) ĐÁNH SỐ TỪ I ĐẾN V”
Nhận thấy tập thơ đến nay đã trở
nên rất hiếm, chúng tôi cho in theo lối ảnh
ấn để bạn đọc có trong tay thi phẩm gần như
trung thành tuyệt đối với bản in lần đầu. Ngoài
mục đích lưu lại một kỉ vật của nhà thơ,
người đọc còn có thể hình dung tại đây
từ kĩ thuật in ấn, việc trình bày bìa,
dàn trang... cho đến chính tả chữ Quốc ngữ
với lối viết những từ ghép mà lớp người
sinh ra những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX vẫn
quen dùng (Tràng-an, Phong-hoá, thi-ca,
đủng-đỉnh, lờ-đờ, nước-non, cô-độc, rè-rè,
xơ-xác)...
Trong tập thơ có nhiều câu vắt
dòng, nhưng sau dấu phảy (,) của câu trên,
câu dưới vẫn viết hoa, như vô thức, hoặc kín
đáo diễn tả sự “ chuyên chế ” của một
thời thơ chưa xa. Người đọc cũng còn thấy ở đây
“ màu thời gian ” qua độ mòn của những con
chữ chì sắp rời, những vết chèn chữ, kiểu
chữ... Tuy kém sắc nét, khôn ngoan so với
con chữ vi tính ngày nay, nhưng thời gian tính
của ấn phẩm xưa lại chính là vẻ đẹp không
bao giờ trở lại.
*
Như đã trình bày, do hoàn
cảnh lịch sử, một thời gian khá dài Huế, Đẹp
và Thơ đã không được tiếp nhận trong
chỉnh thể tác phẩm nên mọi người chỉ biết
đến Nam Trân qua Thi nhân Việt
Nam, chưa có
điều kiện tìm hiểu đặc sắc thơ ông một
cách toàn diện. Vậy Huế, Đẹp và
Thơ ở
vào vị trí nào trong phong trào Thơ
Mới ? Chúng tôi đặt ra câu hỏi này
khi lần đầu đọc Huế,
Đẹp và Thơ với một ấn
tượng sâu sắc trong buổi tưởng niệm năm xưa.
Hôm ấy, nhà thơ Tố Hữu được
mời lên phát biểu đầu tiên. Ông ôn
lại kỉ mệm với vài nhà “ thơ mới ”, rồi
chậm rãi nói trong niềm xúc động : “ Tôi
kém anh Nam Trân 13 tuổi. Khi anh đã là
nhà thơ nổi tiếng thì tôi mới bắt đầu
làm thơ ”. Ông dừng lâu ở bài Sơn
còn ướt mà theo ông, là bài thơ
không chỉ lạ trong phong trào Thơ Mới mà
lạ cho đến tận bây giờ. Ông thong thả đọc
hết bài thơ, nhưng không bình luận gì.
Cuối cùng ông nói những câu vô
cùng ấn tượng :
“ Tôi
xin chắp tay lạy anh Nam Trân
hai lạy. Cái lạy thứ nhất là tôi lạy
tài thơ của anh Nam Trân. Ngày đó chưa
ai viết về cảnh thiên nhiên, sông nước Huế
hay đến như thế. Song lúc đó mà chỉ tả
Huế với lời thơ dìu dịu đèm đẹp như thế
thì tôi không chịu được. Tôi viết
bài Dửng dưng
với lời đề tặng tác giả
Huế,
Đẹp và Thơ,
thì khác nào cái
đá của chú thanh niên là tôi -
trót đá vào chân ông già nhà
thơ ! Cái lạy thứ hai của tôi là đã
“ ngạo mạn ” nói thẳng với nhà thơ già.
Tôi vẫn giữ cái “ dửng dưng ” của tôi,
thậm chí cái khinh ghét của tôi đối
với cái “Huế của vua quan và bọn ham danh
lợi” trong lúc Huế đang khổ đau với những Cô
gái Sông Hương...
”.
Tôi hiểu rằng, khi ông nói,
“ tôi xin chắp tay lạy
anh Nam Trân hai lạy ”,
thì đó chỉ là một cách nói :
ngoài việc đánh giá tài thơ Nam Trân,
Tố Hữu muốn thể hiện sự tôn trọng một nhà
thơ đàn anh đã thực lòng nhất tâm
theo Cách mạng từ những ngày đầu, và có
nhiều đóng góp cho nền văn học mới ... Nhưng
riêng với Sơn còn ướt,
tôi cảm thấy như
Nam Trân đã hé lộ tuyên ngôn : một
tác phẩm nghệ thuật chân chính, bao giờ
cũng đủ sức vượt lên thời gian, luôn tinh khôi
như thuở ban đầu, rất cần sự nâng niu, trân
trọng. Tác phẩm nghệ thuật không ưa cái
nhìn cận thị, tọc mạch. Đó là những
bức tranh sơn còn ướt. Xin đứng xa... Với một ám
ảnh như vậy, khoảng tháng sau, nhân có
việc gặp Tố Hữu, tôi muốn hỏi ông thêm
về bài thơ.
Đó là hôm tôi mang hai
trang bản thảo viết về Nam Trân. Vì trong bài
có viết lại những lời Tố Hữu phát biểu
trong buổi tưởng niệm, nên tôi muốn nhờ ông
xem lại hộ. Ông vui vẻ nhận lời. Hôm sau, khi
trao lại cho tôi ông dặn, “ T.
giữ làm kỉ
niệm nhé. Mình chưa biên tập cho ai kĩ vậy
đâu ”. Dĩ nhiên là ông không dặn,
tôi cũng giữ.
Tôi đã đưa in đúng những
gì ông biên tập. Nhưng có một câu
băn khoăn, tôi đành bỏ. Đó là, sau
khi dẫn đoạn thơ :
Ai bảo thiên đường sao lấp lánh
Tài hoa tinh kết, ngọc long lanh
Tôi chỉ thấy nơi đây mồ lạnh
Chôn linh hồn đắm đuối hư danh
Tôi chỉ thấy nơi đây mồ lạnh
Chôn linh hồn đắm đuối hư danh
Tố Hữu viết tiếp : “ Tôi ngờ rằng
ông Nam Trân cũng đã chôn mình
trong cái mồ ấy chăng ? ”.
Sách in xong, tôi đến thăm ông
cũng cốt lựa lời nói lý do bỏ câu biên
tập ấy : ... “ vì bài
viết này là
để kỉ niệm Thầy em, e rằng đưa câu của anh vào,
không tiện ”. Ông cười rất hiền, khen phải.
Nhân đà vui vẻ tôi toan trình bày
cách hiểu bài thơ :
- Thưa Anh, Sơn còn ướt dường
như
biểu hiện một cái gì đó như nỗi khát
khao, như quan niệm trước cái Đẹp…
Không đợi tôi nói hết câu,
Tố Hữu giảng : Nam Trân là nhà thơ có
cỡ. Sơn còn ướt
chính là tâm trạng
thực của ông. Khi là một nhà thơ, hình
như ông ấy đã cảm nhận được một cái
gì là đẹp, là hay đang nhú lên
trong xã hội. Giận khúc
Nam ai là một ví
dụ. Nhưng chỉ thế thôi. Ông không đến gần
hiện thực xã hội hơn nữa được. Tôi phản
ứng với tác giả Huế,
Đẹp và Thơ chẳng
phải vì văn chương. Ông là Nhà thơ
nhưng lại là một “ ông quan ”, một viên
chức cao cấp ở giới thượng lưu cho nên dù có
thấy “ cái đẹp ” của phong trào xã hội
đang lên lúc đó cũng không dám
đến gần sợ nó “ dính ” vào mình
thì nguy hiểm lắm ! Bi kịch của ông là ở
đấy (5).
Nhắc lại chuyện này để thấy việc
tiếp nhận một bài thơ, một tác phẩm văn học
bao giờ cũng là tiếp nhận từ nhiều ngả. Cách
tiếp cận “ xã hội học ” của Tố Hữu cũng là
một cách tiếp cận rất cần tham khảo.
*
Từ tìm hiểu một bài thơ chúng
tôi mong đến với Huế, Đẹp và
Thơ sao cho thơ
nhất, bởi trước đây tôi cũng chỉ hiểu ang
áng Thơ Mới là thơ lãng mạn, nhưng nay
trở nên lúng túng : biết xếp vào
khung nào đây những bài thơ đậm “ lối
tả chân ” như tiếng rao quà, niềm tự đắc
của anh chài, nỗi thương cảm cô thiếu nữ
trẫm mình dưới đáy sông và những
cuộc khiêu vũ phương Tây mới du nhập cùng
tiếng nhạc chát chúa đang phá vỡ nét
trầm mặc của xứ Huế mộng mơ ? Nếu xem đó là
những bài thơ bắt nguồn từ hiện thực thì
tỉ lệ hiện thực và lãng mạn trong tập thơ
ra sao, đó là chưa kể vài bài rất
“ tây ” nhưng khó hiểu ? Còn điều mà
các nhà phê bình thơ rất hay quan tâm
là : tư tưởng của nhà thơ - ông quan Nam
Trân thể hiện đậm nhạt ra sao trong Huế, Đẹp và
Thơ ?
May thay, như một run rủi tình cờ, vừa
qua gia đình nhà thơ đã sưu tầm được
15 trang viết tay ngày 10/10/1962, Nam Trân gửi
Hoàng Xuân Nhị (6) trình bày một số
tìm tòi trong Huế,
Đẹp và Thơ. Chẳng
hạn :
Về kĩ thuật thơ và nói riêng
về kĩ thuật thơ tả cảnh, nhà thơ dẫn bài
Mùa đông (cánh đồng An
Cựu) cho thấy việc
“vận dụng câu 6 tiếng, 7 tiếng v.v... một cách
sinh động, để lồng thêm vần vào đã
tăng chất nhạc của thơ :
Lá bàng như lá vàng
rụng
(câu 2
vần)
Ôi! đìu hiu cảnh chiều
đông
(câu 3 vần)
Hoặc :
Thi tứ viển vông :
thần Tưởng
tượng
Như đàn cò đói lượn đồng không (2 câu có 6 vần, 2 vần chéo)
Như đàn cò đói lượn đồng không (2 câu có 6 vần, 2 vần chéo)
Nhưng khi đã lồng vần rồi, cắt ra
thành những câu từ 1 tiếng đến 5 tiếng đọc
lên nhẹ nhàng, khác hẳn với câu viết
nguyên mỗi câu 6 tiếng. Nhạc điệu và sắc
thái câu thơ đều khác trước. Như vậy
vừa đẹp tai, vừa đẹp mắt.
Lá bàng,
Như lá vàng
Rụng.
Như lá vàng
Rụng.
Ôi. Đìu hiu
Cảnh chiều
Đông.
Cảnh chiều
Đông.
....
Thi tứ viển vông
Thần tưởng tượng
Như đàn cò đói lượn
Đồng không.
Thần tưởng tượng
Như đàn cò đói lượn
Đồng không.
Đọc lên khác hẳn với câu
viết nguyên mỗi câu 7 tiếng”.
Thậm chí Nam Trân đã sáng
tạo ra những dấu mới ( = ) trong Đời
người II để nói
lên hai cái giống hệt nhau, “ đều
là gỗ
trầm hương cả. Thế mà trầm hương này bị
bỏ ri xuống đất đen làm bạn với mối mọt, trầm
hương kia thì được đưa lên bàn thờ....”.
Vốn là người theo nghiệp khoa cử,
trong bài này, Nam Trân cũng không ngần
ngại dùng điển cố trong những câu thơ hiện
đại : Ông cho biết, “ ý
đoạn này là :
Người sống ở đời như chiếc thuyền vượt sóng
cả. Cũng là hiền triết như nhau nhưng nếu là
Bá Di, Thúc Tề thì thuyền trúc xuống.
Nếu là Y Doãn, Chu Công thì thuyền êm mà đi.... Cho nên vinh
hoa hay nhục nhã đều
không phải vì bản thân con người.... Đứng
trước hiện tượng như vậy ta có nên khóc
lóc thở than không ? Trả lời : Cóc họ ! Cứ
cười lên khinh bỉ ”.
Đây cũng là một trong vài
bài rất “tây”, nhưng khó hiểu.
Về tả cảnh, Nam Trân chẳng những tả
màu sắc, đường nét, ánh sáng mà
còn tả âm thanh, hương vị, như trong bài
Trước chùa Thiên Mụ
:
Tiếng hát ngư ông đẫm bóng
cây
Như làn khói nhẹ lên lên mãi....
Như làn khói nhẹ lên lên mãi....
Việc phối hợp hương vị và âm
thanh được Nam Trân dẫn Huế, chiều hè (trong
Huế,
Đẹp và Thơ tập II) :
Gọi
nhau như gọi hoa hồ Tĩnh
Ríu rít trăm hoa ngát dặm đường
Ríu rít trăm hoa ngát dặm đường
Ông cho biết đây là câu
thơ tả “ những em học
sinh trường Đồng Khánh Huế
đi học về. Tên các em toàn là tên
hoa : Kim Cúc, Bạch Liên, Hương Liên, Tú
Anh, v.v. cho nên khi các em gọi nhau ta nghe như các
thứ hoa hồ Tịnh Tâm gọi nhau, ríu rít và
thơm ngát ”.
Theo Nam Trân, nhiều khi tả cảnh còn
phải phối hợp với màu sắc và âm thanh,
như trong bài Nắng thu
:
... Âm thầm cảnh vật vào đêm :
Vết ráng đỏ, tiếng còi xa cùng tắt
Vết ráng đỏ, tiếng còi xa cùng tắt
vì “ nhà thơ tả cảnh phải cao
hơn nhà hoạ sĩ rất nhiều. Hoạ sĩ không thể
nào tả thanh âm và hương vị. Nhà thơ
phải tận dụng ”, nên ông đã có gan
là chê hai câu của Vương Bột :
Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.
Ông cho rằng câu thơ trên “ thì
hoạ sĩ cũng vẽ được vì toàn là màu
sắc, ánh sáng và đường nét !
” Chứ
câu của ông :
Vết
ráng đỏ, tiếng còi xa cùng
tắt
thì “ họa sĩ đành chịu lối tả
cảnh cao cấp đó ! ”....
*
Sau Đổi mới, nếu như trong dịp đưa in
lại
Thi nhân Việt Nam, Từ Sơn đã làm được
một việc có ích khi đưa những chi tiết rất
đắt từ trong tư liệu còn lưu giữ được tại gia
đình, như bản khai trong dịp học tập bảo vệ Đảng
ngày 21/5/1970 hoặc những dòng ghi chép
trong sổ tay, lời tâm tình của Hoài Thanh
trước phút lâm chung vào Lời
cuối sách,
giúp bạn đọc hiểu ông hơn thì, với Nam
Trân, 15 trang viết tay ngày 10/10/1962, cuốn vở
ghi chép công việc trong thời gian dịch Ngục
trung nhật ký..., cũng đều là những tài
liệu rất cần thiết trong việc tìm hiểu Nam Trân
cùng Huế,
Đẹp và Thơ.
Tại phần đầu bài viết này,
khi dùng hai chữ thành thực nói về việc
Hoài Thanh phủ nhận tác phẩm đã làm
nên văn nghiệp của đời ông, chúng tôi
nhớ đến một kỉ niệm buồn. Trong lớp học chữ Hán
ngày ấy, anh bạn H. của tôi là người rất
mê Thơ Mới. Chúng tôi vẫn lén đọc
cho nhau một số bài. Rồi một cô thôn nữ
đã hút hồn anh. Họ cưới nhau. Mau mắn có
đứa con trai. Ngày ấy chúng tôi được Đội
tự vệ Viện Văn học cấp súng CKC để tập xạ
kích. Một đêm, tiếng súng chát chúa
đã báo sự chẳng lành : H. đã kết
thúc đời anh một cách thảm thương ngay trong
tổ ấm nhà vợ ! Tôi được lớp cử đạp xe về
Hà Nội lựa lời báo tin cho gia đình. Hôm
sau, thay vì việc đưa tiễn H, chúng tôi
phải tập trung nghe thầy Hoài Thanh từ Hà Nội
lên giảng về tác hại của “ thơ mới ”. Sau
đó là dự cuộc họp Chi đoàn để nghe
quyết định khai trừ anh. Ngày đó có lẽ
bài giảng cuốn hút của nhà phê bình
văn học nổi tiếng đã khiến nhiều người tưởng
rằng Thơ Mới là nguyên nhân sâu xa
trong cái chết của H., nên không mấy ai cảm
thấy việc khai trừ anh là căng cứng gì. Vì
theo lời giảng của Hoài Thanh, cái “ tội ”
của Thơ Mới là ở chỗ “ không đau mà
rên ” nên những người đã nhiễm phải thứ
thơ ấy mà lại không có lẽ sống vững
vàng thì, khi vỡ mộng rất dễ tìm về
cái chết.
Nhưng thực tế đã càng ngày
càng khiến Hoài Thanh phải “ suy nghĩ rất
nhiều ” về việc tự phủ nhận Thi nhân Việt
Nam
của ông. Ngẫm lại việc này, thấy có cái
gì đó hơi tồi tội : Nếu Thơ Mới không
đau mà rên thì Hoài Thanh không khảo
mà xưng ! Ông hoang mang ? Vì thế mới có
bài “ thơ chân dung ” nổi tiếng : “ Vị nghệ
thuật nửa cuộc đời / Nửa đời sau lại vị người
ngồi trên / “Thi nhân” còn một chút
duyên / Lại vò cho nát lại lại lèn
cho đau ! ” [thơ của Xuân Sách, chú thích của Diễn Đàn].
Phải là người đọc kỹ Hoài
Thanh, rất ngưỡng mộ ông, mới viết được mấy
câu thơ “ châm ” đau như thế. Nhưng Hoài
Thanh không giận. Ngược lại, trước phút lâm
chung, còn thành thật nhận lại đứa con tinh
thần một thời bị ông ruồng rẫy (7). Điều này
có thể hiểu được : Hoài Thanh và Nam Trân
đã sống trong giai đoạn có nhiều bão
giông nên các ông luôn phải trăn
trở về cái đúng cái sai trong suốt quá
trình hoạt động của cuộc đời mình trước
mỗi khúc quanh lịch sử.
Bây giờ tác phẩm của các
ông thảy đều đã in lại, lấp dần những
khoảng trống trong nền văn học hiện đại nước ta. Vì
thế, tư liệu của nhà văn, tiếng nói của
người cùng thời bao giờ cũng là những tài
liệu rất cần thiết cho việc nghiên cứu tiểu sử
và thơ văn của họ.
Về việc nghiên cứu sự nghiệp và
thơ văn Nam Trân, từ sau năm 1997 đến nay tiến sĩ
Nguyễn Hồng Minh, cán bộ giảng dạy trường Đại
học Kinh tế Quốc dân đã biên soạn được
260 trang tài liệu gồm việc chụp lại các bài
thơ của Nam Trân in trên các báo từ
trước 1939 ; những bài viết của Nam Trân trên
Báo Văn học (Văn nghệ),
Tạp chí Văn học
; các
bài phê bình thơ Nam Trân từ 1936, các
bài viết về Nam Trân từ sau 1997... Ngoài
ra Hồng Minh còn sưu tầm gần 200 trang, tập hợp các
bản dịch thơ Đường của Nam Trân (có những
bài ký Tương Như...) trên sách báo.
Gần đây, bà Trần Thị Hường, con dâu nhà
thơ cũng đã sưu tầm được hai tài liệu quý
về Nam Trân : a) cuốn vở ghi công việc trong thời
gian dịch Nhật
ký trong tù, do Viện Văn học
cung cấp ; b) 15 trang thư ngày 10/10/1962, Nam Trân
gửi Hoàng Xuân Nhị (GS Phan Cự Đệ cung cấp).
Trong những tài liệu đó, chúng
tôi quan tâm nhiều đến cuốn vở của Nam Trân
ghi về công việc dịch Nhật ký trong
tù
với nhiều chi tiết : “... 8/2
gặp đ/c Tố Hữu – làm
việc từ 16 giờ đến 18 giờ. Sửa chữa tập dịch thơ.
Dịch thêm bài Tây phong lĩnh, lấy lại bài
Chiết tự.... ” ; ý kiến Hoài Thanh ; làm
dự trù 150 đ để trả tiền dịch vụ Pháp
văn ; chú thích 1932-1933 ? 1942-1943 ? Những ghi chép
đó một lần nữa chứng tỏ công lao của Nam
Trân trong việc dịch Nhật ký trong
tù. Nhà
thơ Tố Hữu từng có lần nói : “ Việc
dịch
tập Nhật ký trong tù
là cực khó. Vì
ngoài kiến thức uyên thâm về Hán học
ra, người dịch phải là nhà thơ thì mới
mong dịch thơ Bác thành thơ cho có hồn
được. Chỉ có anh Nam Trân có đủ hai mặt
này nên anh được giao chủ trì công
việc. Bác đã xem. Tôi thấy bản dịch đó
là rất tốt. Gần đây, một số người đem
dịch lại nhưng xem ra cũng chỉ đảo câu văn, thay
chữ nọ bằng chữ kia thôi chứ chả hơn được
nào ” ! (8)
Còn Chế Lan Viên thì viết :
“ Chỉ
một việc anh dịch xong tập thơ của
Bác, Anh đã coi là có thể làm
xong nhiệm vụ của Cách mạng. Hàng triệu độc
giả cũng cảm ơn Anh vì nhờ Anh, họ đã thưởng
thức được Nhật ký trong
tù.... Gần đây
có nhiều bạn nước ngoài muốn dịch thơ Bác
ra ngoại ngữ đã tìm đến gặp Nam Trân....
Một nhà thơ bạn bảo tôi : Thi sĩ Nam Trân
giúp tôi hiểu được thơ Hồ Chủ tịch hơn
đồng thời hiểu văn học cổ Việt Nam và phương
Đông hơn. Chẳng có lời khen nào xứng đáng
bằng ” (9).
Trước Cách mạng tháng Tám
Nam Trân tự hào về Huế, Đẹp và
Thơ. Hai
mươi hai năm đi theo cách mạng (1945-1967), niềm tự
hào nhất của ông là đã dịch thành
công Nhật
ký trong tù. Sinh thời, trong câu
chuyện tâm tình trên lớp, một hôm ông
bỗng nói, tôi chết cũng được rồi các
đồng chí ạ vì đã dịch thơ Bác và
được Bác mời cơm. Vậy là Nhật ký
trong tù đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
phê duyệt, trở thành một di vật lịch sử. Cần
hết sức tôn trọng bản quyền dịch phẩm.
*
Sẽ là thiếu sót nếu chúng
tôi, một trong những học trò của nhà thơ
Nam Trân không nhắc lại ở đây đôi
điều để tưởng niệm nhà thơ Nam Trân, người
thầy dạy chúng tôi Kinh thi, thơ Đường trong
hơn hai năm. Thầy không chỉ dạy cách thưởng
thức cái hay cái đẹp, ý tại ngôn
ngoại của câu thơ mà còn rất chú ý
phân tích những hóc hiểm, những cái
bẫy ngôn từ. Và nhiều khi trên lớp, ông
như một mình thầm thì, nhấm nháp câu thơ
mà độc thoại thành lời... Chúng tôi
say theo cái say của ông...
Một hôm, nhân giảng đến bài
có câu Quân vấn quy kỳ
vị hữu kỳ...(thơ
Đường), ông liên hệ với hai câu trong bài
Ức hữu ở
Nhật
ký trong tù : “ Tích
quân tống ngã chí giang tân / Vấn ngã
quy kỳ chỉ cốc tân ”. Nếu bám vào mặt
chữ, phải dịch Ngày nào bạn tiễn tôi
đến bên sông, hỏi tôi bao giờ về, tôi
... chỉ tay vào “ cốc tân ” ( !).
Thế nhưng để học trò hiểu câu
thơ này, Nam Trân giảng : chữ chỉ
ở câu
thơ không có ý nghĩa là dùng ngón
tay để chỉ. Ở đây, tác giả đã vận
dụng thành ngữ “ chỉ
nhật nhi đãi ” của
Trung Quốc, nghĩa là không lâu nữa, có
thể thực hiện được (một việc gì đó). Vậy
ba chữ chỉ cốc tân
hàm nghĩa ước hẹn. Thành
ngữ “ chỉ non thề biển ” của ta đã dùng
chữ chỉ này. Chỉ cốc
tân mang ý hẹn đến
mùa sau. Vì thế Nam Trân dịch nghĩa : “ Ngày nào bạn tiễn chân
tôi đến bờ sông, hỏi tôi bao giờ về, tôi
hẹn đến khi có lúa mới ”, rồi dịch thơ :
Ngày đi bạn tiễn đến bên sông
Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng
Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng
Vậy mà, do không hiểu chữ chỉ,
Quách Tấn “ dịch lại ” là : “ Trước đây
anh tiễn tôi đến bên sông, anh hỏi tôi
ngày về, trỏ mùa lúa mới ”, rồi dịch
thành thơ :
Đưa nhau đến tận bờ sông
Ngày về?
- Hẹn bạn lúa đồng trĩu hương
Ngày về?
- Hẹn bạn lúa đồng trĩu hương
Như thế, Quách Tấn lại phải lấy
chữ hẹn của Nam Trân, không thể... trỏ vào
mùa lúa mới được nữa (10).
Nam Trân là một nhà thơ có
cỡ. Năm 1964, trong tiệc rượu tại Bắc Kinh, khi rượu
đã ngà say, các bạn Trung Quốc mang mực
Tàu giấy bản ra, ... thách đấu thơ ! Thi hứng
đang nồng, ông phóng bút liền hai bài.
Chữ ông rất đẹp. Bạn bè trầm trồ khen ngợi.
Nhưng họ khen chữ hay khen thơ ? Nhưng đến khi ông
khoái bút, viết đến bài thứ ba, Nam hạ
một câu thơ với văn khí rất hào sảng :
Hồng kỳ nhật nhật tân
thiên địa (Ngọn cờ
hồng hàng ngày hàng ngày đổi mới
đất trời Tnmg Hoa!) thì không ai còn xuýt
xoa nữa. Họ ùa vào nâng bổng ông lên,
“ vác ” quanh bàn tiệc! Ngay sau đó Tạp
chí Thơ của Trung Qnốc (Thi
san) số 10/1964 in “ Thi
tam thủ [Việt Nam] Nam Trân ” (Ba bài thơ của
Nam Trân – nhà thơ Việt Nam). Vì thế, tôi
tin rằng Nam Trân đáng ra sẽ là một nhà
thơ chữ Hán, nhưng nền Tây học đã kịp
biến ông thành “ tú tài bản xứ ”
và thơ Pháp đã cho ông góp Huế
Đẹp và Thơ vào phong trào Thơ Mới đang
mùa.
Nam Trân còn có dịp ứng tác
hai bài tuyệt cú nữa. Nhưng lần này không
phải một Nam Trân hào sảng bên chiếu rượu
mà là Nam Trân của ba năm sau, trên
giường bệnh. Ông không thể ngờ rằng trong phút
buồn đau cô quạnh ấy, sự xuất thần đã cho
ông viết rất nhanh, như từ trong cõi mộng những
câu thơ buồn đến nao lòng!
Sau
hôm ông mất, 21/12/67, thầy Đào Phương Bình
tâm sự trước lớp có nhắc đến hai bài
thơ này (11) : Anh Nam Trân mất đi, tôi đau
như mất một cánh tay. Từ nay không còn ai
thù tạc nữa. Tôi nhận được bài thơ anh
gửi cho từ lâu. Chả là tôi cũng sốt ruột,
có viết thư về thăm anh nói là vào
năm học rồi, rất mong anh khoẻ để lên dạy anh em.
Câu Ngâm bãi phương từ
ý dĩ xuyên,
anh đã hiểu hết ý tôi rồi. Chữ phương
từ hiểu là lời đẹp cũng được mà hiểu là
lời thơ của Phương Bình cũng được. Hai câu
sau, anh đâu có thể điềm nhiên trước
trách nhiệm Viện giao, nhưng vì bệnh ở chân
không khỏi... Nhưng đọc đến câu cuối, tôi
giật mình : Do thử hô
lai bất thượng thuyền.
Viết thế này là sái rồi. Lý Bạch
thì vì rượu, thiên tử gọi không đến
(Thiên tử hô lai bất
thượng thuyền). Nhưng anh
đang ốm nặng, sao lại viết thế này. Sái quá !
Bài gửi cho các anh chị cũng sái.
Hủy là 30. Địch Nhân Kiệt đời
Đường có rất nhiều học trò nên người
sau dùng điển “ đào lý
mãn thiên
hạ ”, chỉ người nhiều học trò. Viết “ Đào
lý phương viên thắng huỷ đa ” là thầy
Nam Trân đã dùng hai chữ “ đào
lý ”
để chỉ hơn 30 người trong lớp ta (12). Hai câu đầu,
hai năm qua thầy Nam đã hết lòng giảng dạy
cho lớp. Câu thứ ba, nay lực bất tòng tâm,
hết sức rồi (vô lực
truyền xuân sắc). Nhưng
câu thứ tư Trường hướng
thu phong thán nhất
ta ! Gở quá. Mùa thu là mùa tiêu
sái, mùa của hình quan. Hướng mãi ra
gió thu mà than ! thì câu thơ khác
nào tiếng thở hắt ra ! Thơ viết như thế là
thơ viết để chết đấy, các anh chị ạ ! Nghe thầy
Bình giảng, chúng tôi sực nhớ câu tâm
sự của thầy Nam Trân trước đây : “ tôi
chết cũng được rồi...”. Đích thị là
câu “ nói gở ”!
*
Nhà thơ, Dịch giả, Thầy Nam Trân
ra đi từ bấy đã bốn mươi năm và năm nay
cũng là kỉ niệm 100 năm năm sinh của ông. Từ
Huế,
Đẹp và Thơ với những câu thơ lung linh
nét đời của thời trai trẻ đến những câu
thơ nhiều tiên cảm lúc sắp đi xa đều được
Nam Trân viết ra như từ trong cõi mộng, vừa như
khắc khoải ưu tư trước cái vô lực chủ quan
của đời người, vừa như an nhiên tự tại trước
công việc và cái tất yếu của thiên
quy địa luật không ai cưỡng nổi.
Nhưng vẫn còn đây nhà thơ
của cái Đẹp, và của những cảnh đời bên
sông Hương núi Ngự một thời.
Xin trân trọng gửi đến bạn đọc
“ nguyên bản ” cái nhìn nhiều âu yếm
của Nam Trân trước cảnh và người của kinh
thành Huế của những ngày xa...
Hà Nội, 14/6 – 10/8-2007
Đào Thái Tôn
(1) Theo Từ Sơn, con trai nhà
văn Hoài Thanh thì, “ sách
ra đầu năm 1942 liền được tái bản ngay cuối năm ấy ”,
nhưng không ghi tái bản. Phải chăng Nxb.VH chú thích theo bản in Nxb.
Hoa Tiên (Sài Gòn, 1968) ?
(2) Hoài Thanh : Một vài ý kiến về phong trào
“Thơ Mới” và quyển Thi nhân Việt Nam, Tạp chí Văn học số
1/1965.
(3) Từ điển văn
học (1984) cho biết “ Huế, Đẹp và Thơ gồm 50 bài ”. Trong
tài liệu gửi Hoàng Xuân Nhị, 10/10/1962, Nam Trân đã dẫn câu thơ trong
bài Huế, chiều hè,
rồi chú thích : (Huế
đẹp và Thơ, tập II). Vậy tập II đã được xuất bản ? Nếu
đúng như vậy, bạn đọc nào còn lưu giữ được, xin vui lòng cho
biết.
(4) Giấy bouffant : Mặt
giấy hơi xốp, thường có những chấm hình tròn nổi trên sần mặt.
Giấy vergé baroque :
Cầm tờ giấy soi lên ánh sáng, thấy có những đường thẳng song song, do
khi sản xuất người ta dùng những sợi dây kim loại “ in ” lên mặt giấy.
Cả hai loại giấy trên là giấy sang trọng, đắt tiền dùng để in những tác
phẩm quý.
(5) Xin xem Đào Thái Tôn : Nỗi niềm tưởng nhớ thầy Nam Trân...,
trong Những
gương mặt trí thức Việt Nam, tập I. Nxb. VHTT, Hà Nội,
1998, tr.563-576.
(6) Xin xem thư này trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học
số 9/ 2007.
Hiện chúng tôi còn lưu giữ được bức thư
Nam Trân gửi Lớp đại học Hán ngữ ngày 06/9/1967 viết trong bệnh viện,
trong đó có hai bài thơ tuyệt cú viết bằng chữ Hán. Đây là hai sáng tác
cuối cùng của Nam Trân. Mới đây, chúng tôi lại được GS Nguyễn Văn Hoàn
vui lòng cho ba bài thơ tuyệt cú, Nam Trân viết bằng chữ Hán ngay bên
bàn tiệc trước các bạn Trung Quốc, nhân dịp ông và Nam Trân sang sưu
tầm tài liệu về Nguyễn Du (1964) và được Thi san (Tạp chí
Thơ của Trung Quốc) in trên số 10/1964.
Xét thấy đây là những tư liệu rất bổ
ích trong việc tìm hiểu cuộc đời và thơ văn Nam Trân, chúng tôi sẽ công
bố khi có điều kiện.
(7) Tôi còn nhớ, đêm giao thừa Tết năm
1982, tôi ngồi đón xuân với cha tôi trong phòng cấp cứu bệnh viện. Đêm
ấy ông nói với tôi rất nhiều điều buồn vui trong cuộc đời, trong thơ
văn. Tôi nhớ mãi lời ông nói với tôi đêm đó : “ Cha viết văn đã 50 năm nhưng
công việc cha thích nhất là dạy học và bình thơ hay, vô luận là của ai.
Cha biết văn chương của cha cũng vậy vậy thôi. Nếu không có cuốn Thi nhân Việt Nam
thì không chắc gì người ta đã công nhận cha thực sự là một nhà văn
” (Từ Sơn, Lời cuối sách,
Thi
nhân Việt Nam. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1988, tr.
398).
(8) Nỗi niềm tưởng nhớ thầy Nam Trân,
tài liệu đã dẫn.
(9) Chế Lan Viên : Nhớ tiếc Nam Trân,
Tạp chí Văn học,
số 01/1968.
(10) Nxb Văn học in lần thứ 2, 2004.
(11) Hai bài thơ trên đây là thủ bút
của Nam Trân, trong bức thư gửi học trò ngày 06/9/1997. Toàn văn bức
thư chúng tôi đã chụp, gửi Tạp chí Văn
học, nhờ đăng đăng để thấy rõ những tình cảm với học trò
và sự lo toan công việc riêng chung của ông trong những ngày trên
giường bệnh.
(12) Về bài thơ thứ hai, Mai Quốc Liên
viết : “ Chắc rằng
trong những ngày bệnh biết
mình sắp mất ấy, ông cũng nhớ thương chúng
tôi, ông có gửi lại bài thơ chữ Hán
vĩnh biệt chúng tôi ”. Và dịch : “ Các
cây đào cây lý trong vườn thơm rất
tốt tươi / Tôi đem lòng bồi đắp hai năm qua /
Nhưng đến nay không còn tâm lực để truyền
sắc xuân cho vườn cây ấy nữa / đành đứng
trước gió thu than một tiếng than ”. Chữ “ đào
lý phương viên ” là lấy chữ trong bài
văn Xuân dạ yến
đào lý viên tự
của Lý Bạch ”... “ Hẳn
rằng ông có nghĩ
đến tôi, người bạn nhỏ, người học trò...
mà thỉnh thoảng ông vẫn dặn dò : Liên
có thể làm được nhiều việc ; nhưng phải tập
trung vào việc chính yếu... ông muốn tôi
học cho giỏi Hán Nôm...”
Không đúng :
- Do không hiểu hai chữ “ đào
lý ”, người dịch đã biến lời tâm sự
của Nam Trân với học trò thành lời xin
giải nghệ của bác trồng vườn !
- Câu : “ Hội đào lý chi
phương viên ; tự thiên luân chi lạc sự ”
trong Xuân dạ
yến đào lý viên tự
thì, đào lý vẫn chỉ có nghĩa là
cây đào cây lý ; thiên luân là
quan hệ thân thuộc giữa cha con, anh em. Thơ Nam Trân
gửi cho hơn 30 học trò. Vậy không thể nói
Nam Trân lấy điển ở đây.
- Trong thư, nhà thơ đang tính công
việc khi ra viện, không thể bảo ông biết mình
sắp mất hay bài thơ này là bài thơ
vĩnh biệt.
- Người viết cũng không nên đoán
“hẳn là” ông nghĩ đến mình, vì
đây là bài thơ gửi chung cho học trò
cả lớp. (Xem Mai Quốc Liên : Tạp luận,
Nxb.VH, H,
1999, tr.374).
Vài nét về Nam Trân Học trò trong Quảng ra thi... Nam Trân: Con người tài hoa Một số nhà văn tuổi Mùi Hà nội, Đẹp và Thơ Đường phố Đà Nẵng mang tên danh nhân: Nhà thơ Nam Trân Người đương thời thơ mới bàn về thơ Nam Trân Nam Trân - sự gắn bó giữa không gian Huế và tâm hồn thi nhân Tìm lại Huế, Đẹp và Thơ - Giới thiệu tập thơ Nam Trân Nam Trân với Huế Hành xử và đóng góp của một trí thức yêu nước Diễn văn nhân kỷ niệm 100 năm sinh và 40 năm mất nhà thơ - dịch giả Nam Trân Người Quảng trên đất cố đô
Đẹp và Thơ - Cô gái Kim Luông Anh chài tự đắc Bài hát của đại phi công Bài thơ nhất cú hay là nỗi khổ tâm của thi sĩ Bỏ quách lối thơ xưa Cánh cửa Cảnh quê Cầu bạn Chôn hoa Điếu thuốc cháy suông Đời người Eng Gặp khách đong đưa Giận khúc Nam ai Hà Nội, mưa phùn Hái hoa hồng Hồ Tịnh Tâm hay chuồn chuồn Huế, đêm hè Huế, mưa dầm Huế, ngày hè Khiêu vũ 1935 Khoá xuân Liên tưởng Một câu thơ của ông Tú Mỡ Mùa đông, cánh đồng An Cựu Nắng thu Núi Ngự, sông Hương Ngại ngùng khi bước chân ra Sầm Sơn trường hận Sóng bạc tình Sơn còn ướt Tiếng chuông Diệu Đế Trên núi Ngự Trước chùa Thiên Mụ Vườn cau Nam Phổ
Huế - Miền đất ẩn tàng chất liệu thi ca… Huế đẹp, Huế thơ! Huế thơ & thơ Huế Với Huế hôm nay Thương Về Huế Những bến đò ngang Sông Hương Thơ
Hè Hương thủy Người phụ nữ Huế trong văn hóa Tên những nàng con gái Huế một thuở nào Về Huế đọc thơ anh Tạo Mèo Huế 700 năm Thuận Hóa Phú Xuân Huế một “kho” tư liệu chưa từng có
về triều Nguyễn và Huế xưa Trụ sở UBND thành phố Huế sẽ thành Bảo tàng văn nghệ sĩ? Hò giã gạo Bí mật về phi tần "hầu hạ" vua VN GS Trần Quốc Vượng
– Mấy vấn đề về vua Gia Long
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét