Nam Trân

Nam Trân

Thứ Năm, 20 tháng 6, 2013

Hành xử và đóng góp của một trí thức yêu nước



Huế đẹp và thơ, người xưa, người nay đều cảm nhận như thế. Có thể người xưa đã nói ở đâu đó như thế. Nhưng tôi chỉ biết cụm từ ấy qua tên tập thơ của Nam Trân được xuất bản năm 1939 (Huế, Ðẹp và Thơ).

Hành xử và đóng góp của một trí thức yêu nước

NGUYỄN SĨ ĐẠI

 

Ðược cái tên để người đời nhắc nhớ, thật là một may mắn lớn, một vinh hạnh lớn của Nam Trân!
Trong tập thơ này có bài Ðẹp và Thơ viết về cảnh tình Kim Luông. Kim Luông là một làng nhỏ phía bắc sông Hương, phía tây thành Huế, nổi tiếng về các món ăn ngon và con gái đẹp, từng có câu thơ, đồn là của vua Thành Thái: Kim Luông nhiều ả mỹ miều; Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi. Còn thơ của Nam Trân cũng từng được chép tím trong nhiều trang vở học trò:
Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng
Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo
Tôi xuống thuyền cô, cô chẳng biết
Rằng Thơ thấy Ðẹp phải tìm theo
Thuyền qua đến bến, cô lui lại
Vẩy chiếc chèo ngang: giọt nước gieo...

Tản Ðà khen thơ Nam Trân "ý rất hay, lời cũng thật đẹp"; Phan Khôi đánh giá là "một thi nhân đáng biểu dương", còn Hoài Thanh, Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam (1941) từng viết: "Tả cảnh Huế chưa ai bằng được Nam Trân". Viết thế có lẽ hơi quá vì thời ấy còn có Hàn Mặc Tử, Thu Hồng, Nguyễn Ðình Thư, Thúc Tề, Mộng Huyền và nhiều nhà thơ khác với Vườn ai mướt quá xanh như ngọc/ Lá trúc che ngang mặt chữ điền; với Một hàng tiên nữ cười trong nón/ Sông mở lòng ra đón bóng yêu; và Xào xạc sóng buồn khua bãi sậy/ Bập bềnh trên mạn chiếc thuyền ai, v.v... Nhưng quả thật, Nam Trân là người có tình yêu, có hiểu biết Huế thật sự sâu sắc, thật sự máu thịt, dù ông là người xứ Quảng.
NAM TRÂN là người dịch thơ Ðường xuất sắc. Ông là người có công lớn trong việc xuất bản Nhật ký trong tù và hai tập Thơ Ðường ở Việt Nam. Những tác phẩm này có độ chuẩn cao về nhiều phương diện, được coi là loại sách gốc. Giáo sư Mai Quốc Liên, một học trò Hán học của Nam Trân cảm tưởng về các tác phẩm dịch của thầy mình như sau: "Ðó là một sự nhập thần tinh diệu, một đỉnh cao và một kiểu mẫu của việc dịch thơ" (Báo Văn nghệ, số 41 năm 1997).
Nam Trân là một trong những người có đóng góp quan trọng trong việc xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu ở Viện Văn học nói riêng và cả nước nói chung bằng nhiều hoạt động, trong đó có việc trực tiếp giảng dạy; giới thiệu tinh hoa văn học nước ngoài như Homer, Dante, Goethe, Lỗ Tấn, văn học cổ Trung Hoa...
Vì sao ông có một vốn kiến thức phong phú và một tài năng như vậy?
Học giả Nam Trân, tên thật là Nguyễn Học Sĩ, sinh năm 1907 ở làng Phú Thứ Thượng, huyện Ðại Lộc (Quảng Nam); cả hai bên nội ngoại đều là gia đình Khoa bảng, có nhiều danh sĩ nổi tiếng. Ông theo học chữ Hán từ nhỏ, năm 12 tuổi đã thạo lối văn chương trường ốc, cử tử. Lớn lên, ông theo Tây học, học Quốc học Huế, có bằng tú tài bản xứ và tiếp tục tốt nghiệp Trường Bảo hộ Hà Nội. Lý tưởng và con đường của nhà nho ngày trước là "Tiến vi quan, đạt vi sư". Nam Trân từng làm quan dưới triều Nguyễn trước cách mạng, cao nhất đến Án sát Bình Ðịnh, Thị lang Bộ lại, hàm Chánh tam phẩm.
Cách mạng Tháng Tám nổ ra. Ông hào hứng, tích cực nhập vào con đường lớn của nhân dân, tham gia Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Ðại Lộc, rồi Ủy ban hành chính kháng chiến tỉnh Quảng Nam, Chánh văn phòng Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu V và nhiều chức vụ khác cho đến khi về công tác ở Viện Văn học, phụ trách công tác tư liệu, phụ trách Ban cổ cận; Ủy viên BCH Hội Nhà văn Việt Nam. Ông mất năm 1967, thọ 60 tuổi đang độ chín nhất của một nhà nghiên cứu, để dở dang nhiều công trình khảo cứu, dịch thuật đồ sộ.
Vào thời ấy, học vấn như Nam Trân Nguyễn Học Sĩ là gồm đủ và ở đỉnh cao. Tuy nhiên, ông không ngừng tự học và làm việc miệt mài vì mục đích lâu dài, đó là phát triển sự nghiệp văn học, văn hóa nước nhà.
Nam Trân không để lại nhiều tác phẩm, như một số người khác. Ðánh giá về cuộc đời và sự nghiệp của ông, ngay khi ông mất, nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: "Một người như anh khi ra đi, đáng lẽ có thể để lại sau lưng mình nhiều quyển sách. Nhưng anh là người yêu công tác, công việc, bất cứ việc gì có ích cho anh em - hơn là yêu cái tên mình để lại trên gáy những quyển sách dày hay mỏng... Nhưng hãy yên lòng! Chỉ một việc anh dịch xong tập thơ Bác, anh đã coi là có thể làm xong nhiệm vụ của mình... Một nhà thơ bạn đã bảo tôi: Thi sĩ Nam Trân giúp tôi hiểu thơ Hồ Chí Minh hơn, đồng thời hiểu văn học cổ Việt Nam và phương Ðông hơn. Chẳng có lời khen nào xứng đáng bằng".
Tên tuổi Nam Trân đã theo thơ Bác, Thơ Ðường mà đến với các bạn đọc trẻ. Ông cứ thế mà trường tồn. Trên báo Văn học số 94, ra ngày 13-5- 1960, Nam Trân đã viết về Nhật ký trong tù: "Ngục trung nhật ký là một tác phẩm rất lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà thơ rất lớn". Ðánh giá đó thật ngắn gọn và tuyệt đối đúng, phải là người có kinh nghiệm văn học, có bản lĩnh nhìn suốt thời gian mới viết được như vậy.
Vẻ đẹp và giá trị lớn lao trong thơ Hồ Chí Minh chưa từng được khai thác hết vì nó là rất lớn và vô hạn, vô hạn như Ðường thi và Truyện Kiều vậy.
Năm nay, kỷ niệm 100 năm Ngày mất của nhà thơ, nhà văn hóa Nam Trân, chúng ta không chỉ ghi nhận những đóng góp có giá trị của ông mà còn thấm thía trước tinh thần xuất xử, sự lựa chọn và hành vi ứng xử đáng trân trọng, học tập của ông, một trí thức yêu nước.
Dưới chế độ cũ, ông dồn hết tâm nguyện và sức học hành để làm một ông quan tốt, mang chí kinh bang tế thế, mong làm điều có ích cho nhiều người hơn là "độc thiện kỳ thân" của kiểu nhà nho yếm thế. Lòng yêu nước và thức thời sớm đưa ông đến với cách mạng và ở đây, ông không từ nan bất cứ một công việc nào, kể cả tăng gia sản xuất trồng rau, đem sức đại bút để làm vè ví như Gò Côi từ độ khẩn hoang/ Sắn mì cùng với khoai lang tốt mù..., miễn là việc nhỏ ấy có ích cho một sự nghiệp lớn. Ông bằng lòng, thanh thản cởi hết trọng trách, phẩm hàm, chức tước - mà cũng khá lớn - của chính quyền vì đã nhiều người có thể làm được để trở về hoạt động trong lĩnh vực văn hóa của buổi nhân tài còn hiếm, không mấy ai đương.
Rồi trong đời sống hằng ngày, nhiều khi ông dẹp lại những công trình riêng, những cuốn sách do ông chủ biên để "dạy người không mỏi" đám học trò sẽ là tương lai của nền học thuật nước nhà.
Vào cuối ngũ tuần, khi mắc trọng bệnh, ông đã viết một bức thư rất cảm động cho các học viên lớp đại học Hán Nôm: "Và mỗi lần nghĩ đến việc học của các đồng chí, tôi cảm thấy buồn là chưa giúp gì được cho các đồng chí lúc này. Buồn thật các đồng chí ạ. Ðó là một điều khi nghĩ đến là tôi thở dài:
Ðào lý phương viên thắng hủy đa
Tiểu tâm bồi ủng nhị niên qua
Như kim vô lực truyền xuân sắc
Trường hướng thu phong thán nhất ta!

Tôi xin được tạm dịch là:
Vun đắp lâu rày, dạ chứa chan
Vườn thơm đào lý, nhựa đang tràn
Buồn nay vô lực truyền xuân sắc
Trước gió thu dài, một tiếng than!

Các học trò của ông, những cành đào lý ngày ấy giờ đã thành cổ thụ, những giáo sư, tiến sĩ, chuyên gia đầu ngành. Tiếp bước ông, họ đã và đang truyền thụ kiến thức, tình yêu văn học cho các thế hệ trẻ. Xin ông hãy an vui cùng Lý - Ðỗ chốn vườn thơ bất tuyệt!



Vài nét về Nam Trân Học trò trong Quảng ra thi... Nam Trân: Con người tài hoa Một số nhà văn tuổi Mùi Hà nội, Đẹp và Thơ Đường phố Đà Nẵng mang tên danh nhân: Nhà thơ Nam Trân  Người đương thời thơ mới bàn về thơ Nam Trân Nam Trân - sự gắn bó giữa không gian Huế và tâm hồn thi nhân Tìm lại Huế, Đẹp và Thơ - Giới thiệu tập thơ Nam Trân Nam Trân với Huế Hành xử và đóng góp của một trí thức yêu nước Diễn văn nhân kỷ niệm 100 năm sinh và 40 năm mất nhà thơ - dịch giả Nam Trân Người Quảng trên đất cố đô

Đẹp và Thơ - Cô gái Kim Luông Anh chài tự đắc Bài hát của đại phi công Bài thơ nhất cú hay là nỗi khổ tâm của thi sĩ Bỏ quách lối thơ xưa Cánh cửa Cảnh quê Cầu bạn Chôn hoa Điếu thuốc cháy suông Đời người Eng Gặp khách đong đưa Giận khúc Nam ai Hà Nội, mưa phùn Hái hoa hồng Hồ Tịnh Tâm hay chuồn chuồn Huế, đêm hè Huế, mưa dầm Huế, ngày hè Khiêu vũ 1935 Khoá xuân Liên tưởng Một câu thơ của ông Tú Mỡ Mùa đông, cánh đồng An Cựu  Nắng thu Núi Ngự, sông Hương Ngại ngùng khi bước chân ra Sầm Sơn trường hận  Sóng bạc tình Sơn còn ướt Tiếng chuông Diệu Đế Trên núi Ngự Trước chùa Thiên Mụ Vườn cau Nam Phổ

Chuyện em Thanh (Nhặt được của rơi, trả người đánh mất) Mùa xuân trong vườn Em yêu mùa hè Sức mồ hôi Bàn tay mẹ Chớm thu Tựu trường

Những bài học về văn hóa và ngôn ngữ từ một lời cảm ơn của chủ tịch Hồ Chí Minh Nhật kí trong tù tròn bảy mươi năm (1943-2013) 70 năm Ngục trung nhật ký Kỷ niệm 70 năm "Ngục trung nhật ký": Sự trở lại của một kích thước lớn  “Nhật ký trong tù” – 70 năm sáng mãi tinh thần lạc quan của Bác 60 năm Ngày Bác Hồ viết bài cuối của tập thơ Nhật ký trong tù (10/9/1943 - 10/9/2003)  Nam Trân và bản dịch Nhật ký trong tù Sự bất hủ của Nhật ký trong tù Sức lan tỏa của một hồn thơ lớn Trở lại hành trình của nguyên tác  Ngục trung nhật ký  Nhật ký trong tù có 133 hay 134 bài ? Nhà xuất bản Văn học tiếp thu phê bình về việc tái bản Nhật ký trong tù Đọc lại bài thơ Khán “thiên gia thi” hữu cảm (Nhân 70 năm Nhật ký trong tù) Dịch thơ: nói dễ, làm khó! “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 1: Tan một nguyên tác thơ Hồ Chí Minh “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 2: Đạo văn để bình văn “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 3: Không có chữ dạy người biết chữ “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 4: Đạo đồ giả và sáng tạo nhầm Trở lại "số phận" Nhật ký trong tù Ra mắt tác phẩm “Nhật ký trong tù” của Hồ Chủ tịch ở Cộng hòa Czech Vu cáo chính trị – mập mờ học thuật

Phát huy vai trò nhân sĩ trí thức trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc Hội Nhà văn Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động lý luận, phê bình văn học Văn học kháng chiến chống Pháp ở Bình Thuận 60 năm Viện văn học và tạp chí nghiên cứu văn học

 

Năm mới nhớ về một thời gian khó  Bao cấp

Ra mắt hai cuốn Sưu tập Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1933-1934 và Tác phẩm đăng báo 1935 Chế Lan Viên Tấm chân tình đằng sau những tiếng cười Nữ sĩ Anh Thơ: Đa tài, đa tình, nhưng cũng đa đoan

Qua đèo Ngang Hai sắc hoa ti gôn Người vợ (Nguyễn Khải)

Một người Hà Nội- Nguyễn Khải Đi tìm cái tôi đã mất (Nguyễn Khải) Dại khôn Nguyễn Khải Hồi kí của Nguyễn Đăng Mạnh về Nguyễn Khải Muối của rừng (Nguyễn Huy Thiệp) Tuổi 50 Làm sao cho người Việt tin nhau?

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét