Nam Trân

Nam Trân

Thứ Hai, 21 tháng 1, 2013

Nam Trân: Con người tài hoa


Nam Trân: Con người tài hoa

Vân Trình
(Bài viết năm 2007)

Đến mùa xuân này, Nam Trân đã đi xa tròn 40 năm, nhưng những dấu ấn để đời của nhà văn hóa, nhà thơ, dịch giả tài hoa ấy vẫn còn đậm nét.
Nam Trân tên thật là Nguyễn Học Sỹ, sinh ngày 15-2-1907 ở làng Phú Thử Thượng, nay thuộc thôn Mỹ An, xã Đại Quang, huyện Đại Lộc. Thiếu thời, học chữ Hán, sau đó Nam Trân theo học Trường Quốc học Huế rồi Trường Bảo hộ Hà Nội. Đỗ tú tài, ông làm Tham tá Tòa Khâm sứ Huế, tiếp đó làm Tá lý Bộ Lại của chính phủ Nam triều.

Sống và làm việc ở xứ sở sông Hương, núi Ngự, năm 1939, ông cho xuất bản tập thơ đầu gồm 37 bài (tập hợp các bài thơ đã đăng trên các báo). Dụng ý của tác giả là muốn "tỏ chút lòng thành đối với thi ca nước nhà", nhưng không ngờ chính tập thơ - với tên gọi rất ấn tượng : Huế đẹp và thơ -  đã ghi tên ông vào lịch sử văn học Việt Nam  ngay ở những thập niên đầu của thế kỷ XX với vị thế độc đáo.

Thơ Nam Trân mỗi bài là một bức tranh nhỏ, trong đó ít nhiều đều có những nét  tinh tường, đặc sắc, âm điệu thơ khá dồi dào và trước mỗi cảnh, tình đều có một điệu thơ thích hợp. Câu thơ biến hóa, số chữ có khi là 1 và đôi lúc lên đến 10.

Nam Trân là một thi sĩ lãng mạn và nhiệt thành cổ súy cho phong trào "Thơ mới". Thế nhưng, đôi khi ta bắt gặp những ý thơ "rất lạ", lóe sáng trong bầu không khí khá u buồn của dòng thơ này:
Đừng kể nữa những mảnh tình tan tác
Hãy đứng lên, nhạc sĩ, với tôi, đi !
Tôi ghét anh mê giọng hát sầu bi
Và tung mãi tâm hồn thừa trụy lạc
Hãy đứng dậy! Vứt chiếc cầm ảo não!
Tôi cần nghe những khúc nhạc rất hùng
- Thét ngựa lòng phi mãi chẳng chồn chân -
Sáng như gươm tuốt, mạnh như luồng bão...
(Giận khúc Nam ai)

Đặc biệt, Nam Trân đã sáng tạo ra một phong cách lạ cho thơ - một dấu ấn khó quên trên thi đàn   Việt Nam  nửa đầu thế kỷ trước. Đó là một lối thơ mà Hoài Thanh - đồng tác giả Thi nhân Việt Nam gọi là  thơ tả chân. Hoài Thanh nhận xét: “ Lối thơ tả chân vốn xưa ta không có. Đây đó rải rác cũng nhặt được đôi câu; nhưng đến Nam Trân mới biệt thành một lối. Nam Trân đã tìm ra khoảnh đất mới và ở đó người ta đã dựng lên - ý chừng để sáp nhập làng thơ Việt  - cái cảnh núi Ngự sông Hương".
Một đóng góp nữa của Nam Trân trước Cách mạng Tháng Tám cần được hậu thế trân trọng: ông là người quảng bá nhiệt thành hình ảnh hai Di sản Văn hóa thế giới (Huế và Hội An) qua ngôn ngữ thi ca. Ngay từ bài mở đầu tập Huế đẹp và thơ, người đọc có thể tìm thấy những tình cảm trong trẻo, những khoảnh khắc của cái đẹp đất Thần kinh:
Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng,
Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo
Tôi xuống thuyền cô, cô chẳng biết
Rằng thơ thấy đẹp phải tìm theo.
Thuyền qua đến bến, cô lui lại,
Vẩy chiếc chèo ngang: giọt nước gieo
Đăm đăm mỏi mắt vì chèo,
Chèo cô khuấy nước trong veo giữa dòng.
Biết không? Cô hỡi, biết không
Chèo cô còn khuấy, sóng lòng còn xao?
(Cô gái Kim Luông)

Còn sinh hoạt của phố Hội xưa cũng được Nam Trân lột tả bằng những đường nét rất thực, hóm hỉnh đậm chất Quảng Nam:
Ai eng chè đậu dóng?
Ai eng đậu hảu không?
Ai eng hột dịt lộn?
Bánh ít ngọt ? Xôi hông...?
Đến Faifao, khách lạ,
Ai nấy cũng dửng dưng:
Quảng Nam đất văn vật
Sao lắm bợm “eng hung”?...
(Eng)

Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công. Từ một viên chức, một quan lại Nam triều, Nam Trân nhanh chóng đến với cách mạng, với kháng chiến và hòa mình vào cuộc trường chinh vĩ đại của dân tộc, công tác tại Ủy ban  Kháng chiến hành chính huyện Đại Lộc, Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh  Quảng Nam, rồi làm Chánh Văn phòng Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu 5.

Hòa bình lập lại (1954), ông tập kết ra Bắc và trở lại nghề viết văn, là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1959, Nam Trân về công tác tại Viện Văn học, phụ trách Tiểu ban dịch tập thơ chữ Hán Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng trí tuệ uyên bác và sự cảm nhận sâu sắc về con người và cuộc đời của Bác Hồ kính yêu, Nam Trân và các cộng sự đã thành công trong việc dịch tập thơ Nhật ký trong tù ra tiếng Việt. Đầu năm 1960, tập thơ được in đúng vào dịp sinh nhật lần thứ 70 của Bác, tiếp tục ghi thêm dấu ấn của Nam Trân trong lịch sử văn học hiện đại của nước nhà. Nhiều nhà nghiên cứu văn học nhận định: Phải là bậc cao thủ mới làm được như vậy. Có rất nhiều bản dịch đã chuyển dịch đầy đủ ra tiếng Việt cái hồn, cái thần thái, xúc cảm, tư tưởng và nhịp điệu của nguyên tác một cách nhuần nhị, hồn nhiên; thật sự là một sự quyện chặt văn hóa và hồn thơ. Mặt khác, những bản dịch thơ Bác cũng là những bản dịch mẫu mực với những yêu cầu nghiêm ngặt nhất của nghệ thuật dịch văn học.

Vượt qua thời gian và không gian, Nam Trân - con người tài hoa, luôn sống mãi trong lòng người mộ điệu!


Huế đẹp, Huế thơ


Vài nét về Nam Trân Học trò trong Quảng ra thi... Nam Trân: Con người tài hoa Một số nhà văn tuổi Mùi Hà nội, Đẹp và Thơ Đường phố Đà Nẵng mang tên danh nhân: Nhà thơ Nam Trân  Người đương thời thơ mới bàn về thơ Nam Trân Nam Trân - sự gắn bó giữa không gian Huế và tâm hồn thi nhân Tìm lại Huế, Đẹp và Thơ - Giới thiệu tập thơ Nam Trân Nam Trân với Huế Hành xử và đóng góp của một trí thức yêu nước Diễn văn nhân kỷ niệm 100 năm sinh và 40 năm mất nhà thơ - dịch giả Nam Trân Người Quảng trên đất cố đô Đọc lại 'Huế, Đẹp và Thơ' của Nam Trân Kỷ niệm 100 năm ngày sinh cố nhà thơ - dịch giả Nam Trân Vài thổ âm, thổ ngữ của người Quảng "Người Xô Viết" với các nhà văn đất Quảng thời kháng chiến chống Pháp (1946-1954)

Đẹp và Thơ - Cô gái Kim Luông Anh chài tự đắc Bài hát của đại phi công Bài thơ nhất cú hay là nỗi khổ tâm của thi sĩ Bỏ quách lối thơ xưa Cánh cửa Cảnh quê Cầu bạn Chôn hoa Điếu thuốc cháy suông Đời người Eng Gặp khách đong đưa Giận khúc Nam ai Hà Nội, mưa phùn Hái hoa hồng Hồ Tịnh Tâm hay chuồn chuồn Huế, đêm hè Huế, mưa dầm Huế, ngày hè Khiêu vũ 1935 Khoá xuân Liên tưởng Một câu thơ của ông Tú Mỡ Mùa đông, cánh đồng An Cựu  Nắng thu Núi Ngự, sông Hương Ngại ngùng khi bước chân ra Sầm Sơn trường hận  Sóng bạc tình Sơn còn ướt Tiếng chuông Diệu Đế Trên núi Ngự Trước chùa Thiên Mụ Vườn cau Nam Phổ

Chuyện em Thanh (Nhặt được của rơi, trả người đánh mất) Mùa xuân trong vườn Em yêu mùa hè Sức mồ hôi Bàn tay mẹ Chớm thu Tựu trường

Những bài học về văn hóa và ngôn ngữ từ một lời cảm ơn của chủ tịch Hồ Chí Minh Nhật kí trong tù tròn bảy mươi năm (1943-2013) 70 năm Ngục trung nhật ký Kỷ niệm 70 năm "Ngục trung nhật ký": Sự trở lại của một kích thước lớn  “Nhật ký trong tù” – 70 năm sáng mãi tinh thần lạc quan của Bác 60 năm Ngày Bác Hồ viết bài cuối của tập thơ Nhật ký trong tù (10/9/1943 - 10/9/2003)  Nam Trân và bản dịch Nhật ký trong tù Sự bất hủ của Nhật ký trong tù Sức lan tỏa của một hồn thơ lớn Trở lại hành trình của nguyên tác  Ngục trung nhật ký  Nhật ký trong tù có 133 hay 134 bài ? Nhà xuất bản Văn học tiếp thu phê bình về việc tái bản Nhật ký trong tù Đọc lại bài thơ Khán “thiên gia thi” hữu cảm (Nhân 70 năm Nhật ký trong tù) Dịch thơ: nói dễ, làm khó! “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 1: Tan một nguyên tác thơ Hồ Chí Minh “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 2: Đạo văn để bình văn “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 3: Không có chữ dạy người biết chữ “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của nhà phê bình Lê Xuân Đức? – Kỳ 4: Đạo đồ giả và sáng tạo nhầm Trở lại "số phận" Nhật ký trong tù Ra mắt tác phẩm “Nhật ký trong tù” của Hồ Chủ tịch ở Cộng hòa Czech Vu cáo chính trị – mập mờ học thuật

Phát huy vai trò nhân sĩ trí thức trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc Hội Nhà văn Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động lý luận, phê bình văn học Văn học kháng chiến chống Pháp ở Bình Thuận 60 năm Viện văn học và tạp chí nghiên cứu văn học

Năm mới nhớ về một thời gian khó  Bao cấp

Ra mắt hai cuốn Sưu tập Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1933-1934 và Tác phẩm đăng báo 1935 Chế Lan Viên Tấm chân tình đằng sau những tiếng cười Nữ sĩ Anh Thơ: Đa tài, đa tình, nhưng cũng đa đoan

Qua đèo Ngang Hai sắc hoa ti gôn Người vợ (Nguyễn Khải)

Một người Hà Nội- Nguyễn Khải Đi tìm cái tôi đã mất (Nguyễn Khải) Dại khôn Nguyễn Khải Hồi kí của Nguyễn Đăng Mạnh về Nguyễn Khải Muối của rừng (Nguyễn Huy Thiệp) Tuổi 50 Làm sao cho người Việt tin nhau?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét